Thống Kê Newsletter
Lần đầu đến với Nhịp Cầu Giáo Lý?

Những liên kết dưới đây có thể hữu ích với bạn.

 
24/05/2025
Thiện Chí

NHỮNG DẤU ẤN NHÂN VĂN TRONG LỊCH SỬ ĐẠO CAO ĐÀI

NHỮNG DẤU ẤN NHÂN VĂN TRONG LỊCH SỬ ĐẠO CAO ĐÀI (Sưu tầm từ quyển Sử Đạo Cao Đài, Quyển 1, Cơ Quan PTGLĐĐ xuất bản năm 2005) 1. Ngài Ngô Văn Chiêu vào Đạo do lòng hiếu thảo đi cầu thuốc cho mẹ. Cuối năm 1917 (Đinh Tỵ) do thân mẫu lâm trọng bệnh, Ngài Ngô đến hầu đàn Hiệp Minh ở Cái Khế tỉnh Cần Thơ để cầu thuốc. Đến nơi thì đàn cơ đã lập , Ngài không dám đường đột vào, sợ làm náo động, nên đứng bên ngoài. Bỗng nhiên, Tiên gia gọi Ngài Ngô vào hầu, ban cho thân mẫu Ngài bài thuốc trị bệnh và riêng Ngài hai bài lục bát. Bài thơ thứ nhất mười câu, như sau: "Trời còn sông biển đều còn, Khắp xem cõi dưới núi non đượm nhuần. Thanh Minh trong tiết vườn Xuân Phụng chầu hạc múa, gà rừng gáy reo. Đường đi trên núi dưới đèo, Lặng tìm cao thấp ải trèo chông gai. Phận làm con thảo há nài, Biết phương Tiên Phật, Bồng lai mà tìm. Xem qua xét lại cổ kim, Một bầu trời đất thanh liêm chín mười.” Bài thơ thứ hai cũng mười câu, trong đó xin trích bốn câu cuối: “Sáu mươi hội điểm linh đằng, Cầu cho mẹ mạnh mới bằng lòng con. Ba ngày trong điểm vuông tròn, Sớ dưng cho mẹ điểm son tha rày.” Nhờ vào lòng thành của Ngài được Ơn Trên chứng chiếu cho bài thuốc trị bệnh, thân mẫu Ngài mạnh khỏe thêm vài năm. Hai bài thơ rất mực văn chương uyên bác, ca ngợi đạo hiếu lại gợi lên chí hướng tìm Đạo của Ngài Ngô. 2. Đặc biệt, công cuộc lập đạo Cao Đài được mở đầu bằng những buổi xướng họa thơ văn giữa 2 cõi sắc không. Các bài thơ đối đáp của chơn linh Đoàn Ngọc Quế và Nhóm xây bàn còn ghi trong Sử Đạo: Buổi xây bàn được tổ chức, vào đêm 30-7-1925 (nhằm 10-6-Ất Sửu) cũng tại nhà Ngài Cao Hoài Sang ở phố Hàng Dừa (Hình minh họa trên đây) Bài thơ của Đoàn Ngọc Quế: “Nỗi mình tâm sự tỏ cùng ai, Mạng bạc còn xuân uổng sắc tài. Những ngỡ trao duyên vào ngọc các, Nào dè phủi nợ xuống tuyền đài. Dưỡng sinh cam lỗi tình sông núi, Tơ tóc thôi rồi nghĩa trúc mai. Dồn dập tương tư oằn một gánh, Nỗi mình tâm sự tỏ cùng ai”. • Bài thơ của Ngài Phạm Công Tắc: “Ngẩn bút hòa thi tủi phận ai, Trời xanh vội lấp nữ anh tài. Tình thâm một gánh còn dương thế, Oan nặng ngàn thu xuống dạ đài. Để thảm xuân đường như ác xế, Gieo thương lữ khách ngóng tin mai. Hiềm vì chưa rõ đầu đuôi thế, Ngẩn bút hòa thi tủi phận ai”. (Ngẩn có nghĩa là thờ thẫn, ngẩn ngơ)
 
 
• Bài thi của Ngài Cao Quỳnh Cư: “ Rằng liễu khóc oanh có mấy ai, Mộ người quốc sắc đấng thiên tài. Nhìn văn độ phẩm hàng khuê các, Xót bạn tri âm cõi dạ đài. Ngàn dặm hoa trôi sầu cụm trước, Một mồ cỏ loán ủ nhành mai. Cửu tuyền hồn Quế linh xin chứng, Rằng liễu khóc oanh có mấy ai.” • Bài thi của Ngài Cao Hoài Sang: “ Nửa chừng xuân gãy tủi thân ai, Nông nỗi nghĩ thôi tiếc bấy tài. Ngọc thốt dám bì trang tuấn kiệt, Vàng rơi nghiêng chạnh khách chương đài. Những ngờ duyên thắm trao phòng bích, Hay nỗi xương tàn xủ giậu mai. Môt giải đồng tâm bao thuở nối, Nửa chừng xuân gãy tủi thân ai.” 3. Dấu ấn thứ ba là những bài học đầu tiên về Nghi lễ và Nhạc lễ Cao Đài. Tính văn hóa nghệ thuật chân tryền ở đây là cách đi chữ TÂM – đúng hơn là điệu múa chữ Tâm của lễ sĩ dâng lễ phẩm lên Thiên bàn. Độc đáo hơn nữa là “hệ thống” nhạc lễ phụ họa cho giọng đọc các bài kinh cúng đàn. Nhạc lễ Cao Đài chính là nhạc cổ truyền Việt Nam, sử dụng các nhạc cụ truyền thống của dân tộc. 4. Dấu ấn thứ tư là đạo phục của tín hữu và thiên phục của các hàng chức sắc Cao Đài. _ Đối với tín hữu, lấy quốc phục làm đạo phục _ Đối với chức sắc, lấy ba màu “Tam thanh” (đỏ, xanh, vàng) làm sắc phục thể hiện Tôn chỉ Tam giáo Quy nguyên. 5. Dấu ấn thứ năm, lấy Dịch lý bày trí thiên bàn, có đủ lý Thái cực lưỡng nghi và Đạo pháp Tam bửu Ngũ hành. 6. Dấu ấn thứ sáu là kiến trúc Tam đài của các Tòa thánh Thánh thất, thể hiện vũ trụ quan và Nguyên lý “Thiên nhân hiệp nhất” của ĐĐTKPĐ 7. Dấu ấn thứ bảy, các Lễ hội đặc thù Cao Đài: Lễ Vía Đức Chí Tôn và Hội Yến Bàn Đào Diêu Trì Cung Lễ Hội Yến Diêu TRì Cung tại Đàn Phật Mẫu, Tòa Thánh Cao Đài Tây Ninh 8. Thứ tám là các thể thơ văn Cao Đài, từ thơ lục bát, tứ tuyệt, Thát ngôn bát cú, Phú lối văn, Động đình, Thể Thái cực lưỡng nghi, văn biền ngẫu . . .Đặc biệt các hình thức khoán thủ, khoán tâm, lien hoàn . . . Tất cả những hình thức văn hóa vật thể đều bàng bạc văn hóa phi vật thể mang ý nghĩa giáo dục đạo đức, mang tính văn học.
Thiện Chí

TA CHI LÀ HẠT BỤI / Thiện Chí


VIET NAM RÚN NĂM CHÂU / Thiện Chí

THE ERA OF AI & ROBOT / Thiện Chí










ĐINH VỊ CON NGƯỜI / Thiện Chí







Lý đạo là xuân / Thiện Chí

TANH MANG SONG TU / Thiện Chí

world cup Hòa Binh / Thiện Chí






NHAT KÝ ĐẦU NĂM / Thiện Chí

















NHAT KÝ CUỐI TUẦN / Thiện Chí

NHẬT KÝ CUỐI TUẦN / Thiện Chí




BẢN THỂ HỌC / Thiện Chí

CUỘC THÁCH ĐỐ / Thiện Chí






ƯỚC VỌNG VÀO XUÂN / Thiện Chí




















TÔI LÀ AI ? / Thiện Chí





TIỀM LỰC SÂU THẲM / THiện Chí




















TÂM VẬT BÌNH HÀNH / Thiện Chí

























Dòng thiên ân / Thiện Chí

Suy ngẫm đầu Xuân / Thiện Chí












Minh Lý Đạo Khai / Thiện Chí

Đức tin Cao Đài / Thiện Chí

Đức tin Cao Đài / Thiện Chí



Hãy tự biết mình / Thiện Chí





Ba Dấu Ấn ĐĐTKPĐ / Thiện Chí

Văn Hóa Đạo Đức / Thiện Chí

Chính Long Đức Trung / Thiện Chí





Khai Xuân Tiến Đức / Thiện Chí

Cơ đạo Kỳ Ba / Thiện Chí


Phục sinh / Thiện Chí

Sống tự nhiên / Thiện Chí


Tỳ Thổ / Thiện Chí






Thiên Nhãn / Thiện Chí

Mong sao em mến hiểu lòng này,
Sắp xếp gia đình cho khéo tay,
Dành để ngày giờ hành đạo sự,
Tô bồi âm chất mới là hay.

Đức Vân Hương Thánh Mẫu, Chơn Lý Đàn, 26-01 Quý Sửu, 28-02-1973

Chúng tôi rất hoan nghênh và sẵn sàng tiếp nhận các ý kiến đóng góp của bạn để phát triển Nhịp Cầu Giáo Lý ngày một tốt hơn.


Hãy gửi góp ý của bạn tại đây