Thống Kê Newsletter
Lần đầu đến với Nhịp Cầu Giáo Lý?

Những liên kết dưới đây có thể hữu ích với bạn.

 
Có thể bạn chưa xem qua
  • Theo Thánh Dụ Quy Điều của Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Đại Đạo, Đức Lý Giáo Tông là vị lãnh đạo tối cao của CQ về mặt vô vi. Ngài vạch ra phương hướng hành đạo, theo dõi, đôn đốc, giúp đỡ CQ về mọi phương diện để CQ đạt được ba mục tiêu, đó là Phổ truyền chánh pháp Đại Đạo, Phổ biến giáo lý chơn tu và Phổ tế quần sinh trên cõi tạm. Cách đây hơn 40 năm, nhân ngày Rằm tháng Hai, Đại Hội Thường Niên Cơ Quan, đánh dấu ngày chấm dứt một năm hành đạo cũ, Đức Lý Giáo Tông đã lai đàn để lời khuyến nhủ chư phận sự CQ trước khi bắt đầu một chặng đường mới.


  • ĐẠO CAO ĐÀI VỚI DÂN TỘC / Phó Giáo Sư TS. Nguyễn Thanh Xuân

    Đạo Cao Đài ra đời ở Nam Bộ vào đầu thế kỷ XX, đến nay là một trong những tôn giáo lớn ở Việt Nam với khoảng 2,5 triệu tín đồ, tập trung chủ yếu ở các tỉnh phía Nam, nhất là các tỉnh Nam Bộ. Đạo Cao Đài ra đời như một hiện tượng tôn giáo độc đáo ở Việt Nam đầu thế kỷ XX với nhiều nét đặc trưng riêng khác. Một trong những đặc trưng tiêu biểu của Cao Đài là quá trình gắn bó với dân tộc.


  • ĐỨC CỦA NGƯỜI QUÂN TỬ

    Trong phần trình bày của mình, đạo đệ lần lượt thưa qua cùng quý đạo trưởng, quý huynh tỷ, các phần có liên quan đến việc tu thân hành đạo, dựa trên cơ sở Dịch học, đồng thời kết hợp với lời dạy của Thiêng Liêng qua các nguồn Thánh giáo.
    Trước tiên chúng ta tìm hiểu hai chữ quân tử được hiểu như thế nào?


  • Qua hơn 40 năm học Đạo và hành đạo tại Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý, nhứt là qua những trải nghiệm sau gần 20 năm nghiên cứu Sử Đạo, tiếp xúc thân cận với người đạo Cao Đài khắp Nam, Trung, Bắc, bản thân chúng tôi nhận thấy nhiều địa phương thiếu vắng lớp kế thừa, có nơi rất thiếu. Và nghiệm ra rằng, trong những nguyên nhân, nguyên do cốt yếu là “thiếu giáo lý”.
    Đó là nguyên nhân chánh khiến nên chúng tôi muốn viết ra một số “Những điều người tân tín đồ Cao Đài cần nhớ và tìm hiểu thêm” với hy vọng góp phần nhỏ vào việc giúp cho những ai đang chuẩn bị, hay mới nhập môn đạo Cao Đài, ý thức một cách rõ ràng việc vào Đạo của mình. Qua đây, cũng hy vọng những vị “cao niên đạo” thấy rõ nhu cầu giáo lý của đàn em để kịp thời đáp ứng, đồng thời góp ý kiến cho loạt bài này thêm phong phú, thêm sâu sắc, thêm nhiều thí dụ điển hình ….


  • Trong các trích đoan thánh giáo trên, cho thấy Ơn Trên dạy rõ “ BÍ PHÁP là gì,” nhưng đồng thời cũng dạy về “ Pháp môn công phu thiền định” tức là đạo pháp. Thiển nghĩ sự “ ban trao bí pháp và tiếp nhận bí pháp” hàm ý bí pháp gồm chủ thể và đối tượng tương liên bằng một động tái kín nhiệm tại tâm. Các đối tượng phải tự tạo điều kiện “ tịnh khiết” thân tâm để nhận được “ bí pháp” : “Con người biết giữ được mực độ quân bình cho chính bản thân là tâm linh phải lo trau luyện cho thanh thoát, đừng để thất tình lục dục bao vây.( Đối tượng ”trau luyện” phải chăng thực hành đạo pháp hay pháp môn)
    Vậy toàn bộ những gì thuộc về cơ cứu độ Kỳ Ba, Bí pháp hay Đạo pháp đều nằm trong Chánh pháp Đại Đạo. TH.CH.


  • Ngài Minh Thiện sinh tháng 8-1897 (năm Đinh Dậu) trong một gia đình đạo đức Nho giáo tại tỉnh Long An, làng Lợi Bình Nhơn. Thân phụ Ngài là ông Tôn Văn Thi, cũng là Minh Lý môn sanh , nhập môn ngày 02-9-1926, pháp danh Hiệp Nhứt. Thân mẫu Ngài là bà Lâm Thị Chợ
    BÀI ĐĂNG NHÂN NGÀY GIỔ CỦA NGÀI ĐỊNH PHÁP TỔNG LÝ MINH THIỆN
    16 THÁNG 11 Â, LỊCH

    Ông thân Ngài là một Nho gia, tu theo phái Minh Sư, giữ công phá cách, siêng làm các việc phước thiện Ngài theo tân học cho đến khi ra làm việc với chánh phủ thời bấy giờ, được gọi là công chức chánh ngạch. Có thời gian Ngài ra làm việc tại Côn Đảo mấy năm. Ngài mục kích lắm chuyện đau thương, thấy nhiều người đau khổ đến độ muốn chết đi cho rãnh, mà chết đi cũng không được. Thấy rõ cuộc đời là bể khổ, sầu đau, nên từ đó Ngài đã hướng tâm chí mình về đường đạo đức.


  • ANTHOLOGIE DES SAINTES PAROLES CAODAÏSTES TOME II / Traduit du Vietnamien Par QUACH-HIEP Long

    Le livre « THÁNH-NGÔN HIỆP-TUYỂN », son titre vietnamien, a inspiré à Sa Sainteté Hộ-Pháp Phạm Công Tắc l’appellation « Le Livre Céleste » (Bộ Thiên Thơ en vietnamien). Sa lecture permettra de comprendre dans les détails comment DIEU cette fois-ci, par le prête-nom Cao Dai, a fondé au Vietnam en 1926 la Religion qui se veut universelle pour sauver l’humanité entière, en raison de SON immense Amour. J’insiste que Cao Dai n’est simplement qu’un prête-nom de DIEU qui voudrait nous apprendre déjà, par SA façon de SE nommer, la modestie extrême jusqu’à l’oubli de soi ou l’extinction du moi. Par un dialogue direct, ce qui est très exceptionnel, et avec des mots simples mais profonds, DIEU s’est manifesté au moyen du Spiritisme pour nous enseigner le Dao en tant que Maître et Père à la fois.


  • Đêm lịch sử Khai Minh Đại Đạo 14 rạng Rằm tháng 10 Bính Dần 1926, Đức Chí Tôn đã Thiên phong phẩm Giáo Sư cho một số vị Nữ và Nam phái, đồng thời cũng Thiên phong Giáo Hữu một số vị nam phái xung phong đi truyền đạo ở Trung kỳ và Bắc kỳ theo lời kêu gọi của Thầy.
    Ngay đêm sau, Thầy ban cho Pháp Chánh Truyền Cửu Trùng Đài. Trong đó 2 phẩm Giáo Sư và Giáo Hữu có chức năng và nhiệm vụ “dạy dỗ” tín đồ rất rõ nét.


  • Tấm lòng của nhân loại / Nhịp cầu giáo lý

    Những biến động trên thế giới trong những năm gần đây khiến người ta suy nghĩ về nguyên nhân sâu xa của chúng.

    *Những cuộc xung đột đỗ máu tại Trung đông cứ tiếp diển mãi,mặc cho các nổ lực dàn xếp cũng mãi tiếp diễn.


  • Nói đến Ngũ Chi Đại Đạo chúng ta có thể liên tưởng đến Ngũ Chi gồm: Nhơn đạo, Thần đạo, Thánh đạo, Thánh đạo, Tiên đạo và Phật đạo.

    Tuy nhiên, Ngũ Chi Đại Đạo cũng có nghĩa là năm chi đạo cùng họ Minh gồm: Minh Sư, Minh Đường, Minh Lý, Minh Thiện và Minh Tân.


  • Ngũ Thời / Sưu tầm

    Theo Ngài Trí Giả Đại Sư thì Đức Phật thuyết pháp chia làm năm thời kỳ như sau :

    1. Thời kỳ Hoa nghiêm (Avatamsaka) : Sau khi mới thành đạo, Đức Phật dùng tuệ nhãn nhìn thấy rõ tâm địa các vị Đại Bồ Tát và các bậc căn trí Đại thừa đã thuần thục, nên Ngài nói Kinh Hoa Nghiêm để giáo hóa và điều ngự họ. Trong số đó cũng có những bậc Tiểu thừa ngồi nghe, nhưng lại chẳng hiểu Đức Phật nói gì cả.


  • Ngày mùng 1 tháng 3 Đinh Hợi (thứ ba 17/04/2007) được sự phân công của Ngoại Giao Vụ, phái đoàn chúng tôi gồm ba nhân viên: Chí Thật, Minh Đức và Đinh Thị Hạnh, đi dự lễ tại thánh thất Nguyệt Cảnh.

    Xuất phát từ Cơ Quan lúc 20g25 phút ngày 29 tháng 3 Đinh Hợi, hai con ngựa sắt chở chúng tôi ra phòng vé công ty xe khách Mai Linh số 500 Lê Hồng Phong. Làm thủ tục mua vé xong, có xe trung chuyển đưa chúng tôi ra bến xe xa cảng miền tây lúc đó 21g35 phút, cũng là thời điểm chúng tôi khởi hành đi Cà Mau.














    Tâm con vốn bửu tòa Thầy ngự,
    Hãy giúp người gìn giữ Thiên cơ,
    Hoằng khai Đại Đạo Tam Kỳ,
    Công bình, bác ái, từ bi đứng đầu.

    Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế, CQPTGL, Rằm tháng 10 Quý Sửu

    Chúng tôi rất hoan nghênh và sẵn sàng tiếp nhận các ý kiến đóng góp của bạn để phát triển Nhịp Cầu Giáo Lý ngày một tốt hơn.


    Hãy gửi góp ý của bạn tại đây