Những liên kết dưới đây có thể hữu ích với bạn.
-
DẩN NHậP Hạnh nguyện của Đức Quán Thế Âm Bồ Tát là : " Trần gian vạn khổ còn kia, Lòng người Bồ ...
-
Đức Vạn Hạnh Thiền Sư cũng có lần dạy về sự thắng và thua trong kiếp người: Một người tướng có ...
-
Ca dao Việt Nam có câu: “Tu đâu cho bằng tu nhà; Thờ cha kính mẹ mới là chơn tu.” Kinh Tứ ...
-
Nói cho cùng, Bản thể đại đồng chính là Nhân bản. Nhân bản có giá trị trường cửu và phổ ...
-
Kinh thành Thăng Long là một tác phẩm vĩ đại dung chứa và biểu tượng của một tổng hợp Triết ...
-
Kinh Cầu Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp ( Ki-Tô giáo) Lạy rất Thánh đồng trinh Maria. Mẹ đã vui lòng nhận ...
-
. . .Vũ trụ, quần sinh, và con ngưười có hai bình diện: - Một là bình diện Bản thể, duy ...
-
"...Tôi không quen ghi chép sổ sách gì, nhưng nhớ. Đó là ngày 20 tháng Chạp năm Bính Dần. Hôm ...
-
Trần gian là trường tiến hóa cho vạn linh sanh chúng, nhưng đồng thời cũng là nơi con người chịu ...
-
Lịch sử đạo Cao Đài cho thấy đức tin Cao Đài, từ lúc chưa nảy sinh đến lúc lập thành ...
-
Đức Quán Thế Âm Bồ Tát dạy tại Tây thành Thánh thất Cần Thơ vào lúcTý thời 12.3.Kỷ Dậu (28.4.1969)
-
“Quyền pháp Đạo không là điều cai trị. Quyền pháp Đạo chính là sự thương yêu, giải thoát cai trị ...
Sưu tầm
Đền Hùng Phú Thọ - Vùng đất cội nguồn
Trong vùng dấu tích văn hóa vật thể và phi vật thể ấy, Đền Hùng đã trở thành biểu tượng tâm linh của người Việt Nam. Đền Hùng là nơi thờ các Vua Hùng, Quốc Mẫu Au Cơ, Ngọc Hoa Công Chúa, Tiên Dung Công Chúa, Thánh Gióng, Thần Lúa và các vị thần siêu nhiên khác.
Trên núi Hùng (còn gọi là Nghĩa Lĩnh), có mộ vua Hùng, tương truyền là mộ vua Hùng Vương thứ 6 (Hùng Hồn Vương, húy là Long Tiên Lang). Đền Hùng chỉ là một trong số các di tích thờ cúng vua Hùng, tướng lĩnh thời Hùng Vương, song lại là di tích quan trọng nhất, tiêu biểu nhất, đặc trưng nhất về tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên người Việt Nam. Nó không chỉ phản ảnh truyền thống văn hóa Việt Nam mà còn phản ảnh lòng thủy chung, hiếu nghĩa của người Việt qua các thế hệ với những người có công dựng nước và giữ nước.
Thời đại các vua Hùng dựng nước, khu vực Đền Hùng là vùng trung tâm của quốc gia Văn Lang. Bằng các cứ liệu về lịch sử , khảo cổ học, địa lý, nhân chủng học… đã chứng minh và khẳng định thời đại vua Hùng là có thật trong lịch sử Việt Nam.
Núi Hùng thuộc xã Hy Cương, huyện Phong Châu, tỉnh Vĩnh Phúc, cách Hà Nội 80 km đường chim bay :
Xem địa thế trùng trùng long hổ
Tả Đảo Sơn mà hữu Tản Viên
Lô, Đà hai nước hai bên,
Giữa sông Thao thủy, đồng trên Nhị hà.
(Ca dao)
Thực vậy, đây là vùng đất "sơn châu, thủy tụ", vừa hùng vĩ, vừa đẹp tựa tranh. Núi Hùng cao 175m, xung quanh là một vùng bao la, những quả đồi trọc ở phía ngã ba Việt Trì nhấp nhô như những chú rùa khổng lồ phơi giáp trên mặt nước. Bên phải là đồi Khang phụ trông giống như con hổ đang nằm phủ phục, nghếch mặt về Đền Hùng. Phía trái là vị tướng quân giương nỏ bảo vệ ngôi đền, đó là đồi An Thái. Dưới chân núi là làng Thậm thình. Tương truyền, chính tại làng Thậm Thình này, hoàng tử Lang Liêu đã cùng dân làng thức đêm quết bánh giầy dâng lên vua. "Thậm thình", "thậm thình"… tiếng quết bánh trở thành địa danh ghi dấu tích huyền thoại lịch sử.
Từ trên đỉnh cao nhất của núi Nghĩa Lĩnh, phóng tầm mắt sẽ còn thấy được đúng 100 đỉnh núi đồi nhấp nhô như 100 con voi phục, chầu Tổ Hùng Vương. Riêng ngọn Nghĩa Lĩnh có hình đầu rồng, hướng mặt về phương Nam, thân hình uốn lượn giữa hai dãy Tam Đảo và Ba Vì (Tản Viên). Sông Lô nước xanh biêng biếc, sông Thao nước đỏ như son, như hai dải lục viền quanh xóm làng. Đàng xa, sông Đà hùng dũng tung bọt đỏ ngầu phù sa, ngang tàng khí phách nhập vào dòng Bạch hạc mềm mại như tiên nữ tạo nên một cảnh quan tuyệt đẹp đầy hứng thú.
Văn hóa Đền Hùng gồm 3 cụm kiến thức, nằm cách nhau theo chiều cao của núi. Cổng vào đền nằm ở chân núi phía Tây. Hai bên cột vòm cổng có hai câu đối, tạm dịch :
Mở lối đắp nền,
Bốn mặt non sông qui một mối,
Lên cao nhìn rộng,
Nghìn trùng đồi núi tựa nghìn con.
Từ cổng leo lên 225 bậc thềm thì đến Đền Hạ, được xây vào khoảng thế kỷ thứ 17-18 theo hình chữ nhị. Chính tại đây, tương truyền là nơi Mẹ Au Cơ đã đặt bọc trứng khẩn cầu cho nở thành trăm con. Ngoài Đền Hạ là gác chuông và chùa Thiên Quang, xây dựng vào thời Lê (cuối thế kỷ 15)
Đền Trung cách đền Hạ 168 bậc thềm, là ngôi đền được xây dựng trước nhất trong cụm kiến trúc Đền Hùng, vào khoảng thế kỷ 15. Qua thời gian, đều bị hư hại nhiều, được trùng tu vào thế kỷ thứ 18 như hiện trạng ngày nay. Đền Trung xây hình chữ nhất, tương truyền là nơi Vua Hùng bàn việc nước với các Lạc hầu, Lạc tướng và cũng là nơi mà Lang Liêu dâng bánh giầy, bánh chưng lên vua Hùng thứ sáu.
Từ đền Trung lên tiếp 102 bậc thềm, gần đến đỉnh núi là đền Thượng, xây từ thế kỷ thứ 15, được trùng tu vào đầu thế kỷ 20. Tại nơi này, ngày xưa các vua Hùng cùng các bô lão làm lễ tế trời hàng năm, cầu nguyện thần Lúa, và là nơi mà Hùng Vương thứ 6 đã lập đền thờ Thánh Gióng sau khi đáng tan giặc An. Gần đền là mộ Tổ Hùng Vương thứ sáu, trước chỉ là một mô đất, đến năm 1874 thì được xây dựng như ngày nay.
Sau núi, hướng Đông Nam là giếng Ngọc, nơi các con gái vua Hùng soi gương, chải tóc. Hiện khu di tích Đền Hùng có thêm nhiều công trình. Trong đó có Bảo tàng Hùng Vương giúp khách tham quan hiểu biết được đời sống các mặt của cư dân Lạc Việt.
Hàng năm, đến ngày 10 tháng 3 âm lịch, con cháu giòng giống Lạc Hồng lại hướng về đỉnh Nghĩa Lĩnh, nơi có đền Hùng để giỗ Tổ. Ít người biết hơn, trước đó hơn một tháng, ngày mồng 7 tháng giêng, lễ giỗ Mẹ Au Cơ cũng được tổ chức trang trọng ở xã Hiền Lương - Hạ Hòa - Phú Thọ, nơi có đền thờ Đức Tổ Mẫu Au Cơ (cách đền Hùng Vương 50 cây số) mà dân trong vùng gọi tắt là Đức Mẹ.
Đền Thờ Mẫu Au Cơ nằm giữa cánh đồng Hiền Lương, cạnh con sông Thao bốn mùa tươi mát. Theo thần tích được ghi trong Ngọc phả của đền thì Mẹ Au Cơ đẹp lắm. Mẹ về Trời ngày 25 tháng 12 năm Nhâm Thân.
Trải mấy ngàn năm, đền thờ Mẹ luôn khói hương nghi ngút suốt đêm ngày. Đền nằm dưới gốc một cây đa có tuổi chí ít cũng vài trăm năm, cũng có thể cây đó cùng tuổi với ngôi đền. Trong đền, tượng Đức Thánh Mẫu Au Cơ hiền từ phúc hậu, dang tay như muốn ôm lấy các con vào lòng. Dưới chân Thánh Mẫu là điện thờ Sơn Thần Thổ Địa và các quan tướng đã từng theo hầu và thờ phượng Mẹ.
Xưa kia, trong khuôn viên Đền có giếng Loan, giếng Phượng để Mẹ tắm giặt, soi gương. Xéo trước mặt đền là hai ngọn núi Muối và núi Nả nay vẫn còn dấu tích của Mẹ, trên núi Nả hiện còn một cái giếng cổ, nước rất trong, là nơi Mẹ dừng chân nghỉ, soi gương, tắm mát mỗi khi đi làm về ngang.
Tương truyền, địa phận Hiền Lương, nơi dãy Hoàng Liên Sơn hùng vĩ nhấp nhô uốn lượn, được phân bố rải rác như những ngón tay của chàng Sơn Tinh trườn lên ôm lấy một vùng đồng bằng mầu mỡ có con sông Thao len vào rót dòng nước mát đến các xóm làng cho cây cối xanh tươi, lúa trĩu bông vàng, ngày xưa là rừng, cảnh đẹp, sơn thủy hữu tình, sau khi chia tay với vua cha Lạc Long Quân, để lại một người con cả nối ngôi Cha, lấy hiệu là Hùng Vương, Mẹ Au Cơ đem 49 người con lên rừng và dừng chân ở Hiền Lương, lưu lại một người con rồi dẫn 48 người tiếp tục cuộc hành trình đến những nơi khác gây dựng giống nòi và quê hương. Sau khi xếp đặt xong xuôi cho đàn con, Mẹ Au Cơ qua lại Hiền Lương quy tập nhân dân trong vùng đến sinh cơ lập nghiệp. Mẹ dạy cho thần dân của mình cách trồng lúa để ăn, cách dệt vải để mặc. Những tên thôn cổ của xã Hiền Lương đã mang đậm dấu tích giống nòi và mở mang của Mẹ : Hiền Lương, Việt Hồng, Tiêu Phạm, Nang Xa ("Nang" xưa có nghĩa là dân, còn "xa" là dụng cụ để quay tơ kéo sợi)
Ngày Hội Mẹ, khác với các lễ hội ở các nơi, chủ tế luôn là các bô lão đáng kính nhất làng, 12 cô con gái đẹp, ngoan hiền nhất được chọn đứng ra chủ tế. Từ 8 đến 10 cô gái khác đảm nhiệm điều hành đám rước Mẹ về đền chính. Tất cả đều xúng xính trong trang phục quần lãnh tía, áo hồng điều. Đặc biệt, đồ tế Thánh Mẫu đơn giản, chỉ có hoa quả và các loại bánh làm từ gạo, nếp, đậu, mè…(trong khi, lễ hội Vua Hùng, lễ vật ngoài bánh giầy, bánh chưng không thể thiếu, còn có cổ tam sinh gồm heo, dê, bò để nguyên con, cạo lông. Heo để sống, bọc mỡ chài toàn thân. Dê, bò thui vàng. Mâm cổ còn có xôi màu trắng, tím, đỏ…)
Thời kỳ Hùng Vương - Văn Lang là một bước ngoặt trọng yếu của lịch sử nước ta, đã dựng nên nền tảng dân tộc, văn hóa và truyền thống Việt Nam.