Thống Kê Newsletter
Lần đầu đến với Nhịp Cầu Giáo Lý?

Những liên kết dưới đây có thể hữu ích với bạn.

 
  • THOI MAT PHAP / Tue Tam

    Thời kỳ mạt pháp là thời kỳ được bắt đầu từ sau khi đức Phật nhập niết bàn 1500 năm, ...


  • TẾT Bản làng / Sưu tầm

    Trên mỗi làng quê Việt Nam, có biết bao điều kỳ lạ và hấp dẫn quanh tục lệ đón xuân. ...


  • Mùa Xuân suy gẫm / Huyền Như Như Tịnh

    MÙA XUÂN SUY GẨM Nhựt nguyệt xoay vần mới hạ, thu, đông, nay xuân lại đến. Cây xanh đâm chồi nẩy ...


  • Mười Điều Tâm Yếu / Tường Như sưu tầm

    Mười điều tâm yếu hướng về ngày thành đạo của Đức Phật Thích Ca (08 - 10 - Canh Dần) 1/- ...


  • Nguồn gốc : Lư Bồng Đạo Đức, Thánh tịnh Thiên Thai, tại ấp Láng Biển – Mỹ Phước Tây-Cái Bè ...


  • Danh từ "Khai Minh Đại Đạo" đã được Ơn Trên sử dụng từ lâu. Cụm từ này, có thể lần ...


  • TTOnline-Chủ Nhật, 01/08/2010, 09:04 (GMT+7) Hoàng thành Thăng Long được công nhận di sản văn hóa thế giới Ủy ban di sản ...


  • Mới đây, một chiếc trống đồng khá đặc biệt đã được người dân phát hiện, trục vớt từ lòng sông ...


  • CON NGƯỜI NGÀY MAI / Quan Thế Âm Bồ Tát

    Buổi đời mạt pháp, nhơn loại tập nhiễm thói hư nết xấu của Đời, từ vô thỉ dĩ lai chồng ...


  • "Người sanh ra bởi Đạo, thì Đạo tức là người, thì người phải làm sáng cái Đạo, tức là người ...


  • Vạn pháp qui tông / Đức Đông Phương Chưởng Quản

    Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý, Tuất thời, 28 tháng 5 Tân Hợi (20.06.1971)


  • Cao Đài Vấn Đáp / Cơ Quan PTGLĐĐ

    1. Đạo Cao Đài do ai sáng lập ? Đạo Cao Đài do Đức Cao Đài Thượng Đế tức Đức Ngọc ...


03/10/2012
Ban Biên Tập sưu tầm

Bài viết được cập nhật lần cuối vào ngày 04/10/2012

GHI NHỚ CÔNG ĐỨC ĐỨC GIÁO TÔNG VÔ VI ĐẠI ĐẠO (tiếp theo)


Ngài Lý Thái Bạch đời Đường và
Đức Lý Giáo Tông thời Tam Kỳ Phổ độ



THỜI NHỊ KỲ PHỔ ĐỘ

I. Tìm hiểu đôi nét cuộc đời và chí hướng Thi sĩ Lý Bạch đời Đường

Quyển sách “THI TIÊN LÝ BẠCH” (do nhà xuất bản Văn Hóa - Hà Nội năm 1995) nơi đầu trang có ghi:
“Một mảnh sao băng vụt xuống cõi trần” ý nói Ngài là một vị tiên vừa giáng xuống trần nên người đời thường gọi Ngài là LÝ TRÍCH TIÊN.
Dưới đây, chúng tôi xin lược trích một phần nội dung của quyển sách “THI TIÊN LÝ BẠCH” để nói lên cuộc đời và chí hướng của Ngài Lý Bạch.
A. Cuộc đời
Sanh năm 701 (vào tháng 8), cuộc đời của thi sĩ Lý Bạch gắn liền với cảnh thiên nhiên hùng vĩ, với ánh trăng, với rượu, với thi thơ.
Theo truyền thuyết, vào một đêm giông bão, bỗng có một tia chớp sáng rực một góc trời rồi làm mây tan dần và xuất hiện một ngôi sao ở góc trời Tây Bắc, ngôi sao bỗng sáng hẳn lên giống như mặt trăng vào đêm rằm tháng 8. Đó là Ngôi Sao Thái Bạch.
Từ ngôi sao ấy, một vệt sáng xuất hiện, sa xuống và cũng đêm ấy có một người mẹ sanh một bé trai khôi ngô lạ thường.
Người cha tên là Lý Khách ra giữa sân cầm cung tên bắn đi bốn phương Đông - Tây - Nam - Bắc. Theo tục lệ ngày xưa ở xã hội Trung Quốc, khi cha mẹ sanh con trai thường lấy thân cây dâu làm cung (tang) và lấy cỏ bồng (bồng) làm tên bắn đi bốn phương trời để nói lên chí khí của kẻ làm trai sau này tung hoành vùng vẫy, gọi là “chí tang bồng”.
Ngài ra đời trong sự mong ước và nâng niu của cha mẹ. Lai lịch tổ tiên Ngài chưa ai tường.
- Từ 1 đến 5 tuổi: Gia đình Ngài sống những nơi nào cũng khó định được, có lẽ gia đình Ngài sống ở miền Trung Á, vùng đất có tên là Toái Diệp.
Thuở ấy, Toái Diệp là miền Trung Du có đồi núi, rừng rậm, dân cư sống bằng nghề săn bắn, về sau buôn bán tơ lụa thêm.
Thời gian này, triều nhà Đường qua mấy chục năm Võ Tắc Thiên cầm quyền đã làm xôn xao dư luận không ít, bà đã thẳng tay giết hại những người không phục tòng bà, rồi Võ Hậu cũng qua đời lúc 82 tuổi. Giữa lúc triều Đường có sự thay đổi thì cha Ngài bị nghi oan nên bị đánh đập và bị buộc phải rời khỏi Toái Diệp (lệnh phóng trục).
Gia đình dời sang Tứ Xuyên trong sự đau buồn của nhiều người trong làng nhất là các bạn nhỏ của Ngài. Buổi chia tay đầy xúc cảm, các bạn tặng Ngài một thanh gươm gỗ, còn người cậu ruột tặng một cây đàn.
Từ Toái Diệp đến Tứ Xuyên phải trải qua nhiều đoạn đường quanh co khúc khuỷu; trên đường đi thì mẹ Ngài mất. Tứ Xuyên là một tỉnh ở miền núi trùng điệp, mây trắng phủ ngàn, đượm đầy vẻ thanh tú.
Về Tứ Xuyên, gia đình Ngài định cư ở huyện Chương Minh, nơi có nhiều hồ, phong cảnh thật ngoạn mục. Tài năng giờ đây đang phát triển ở một con người tí hon mà ai ai cũng phải kinh ngạc, bởi một cậu bé mới lên năm đã học thuộc làu lục giáp.
1. Một người hiếu học
Thông minh vốn sẵn tính trời lại rất ham học.
- 6 tuổi đã say mê đọc Tứ thư.
- 10 tuổi thông thạo Kinh - Thư - Lễ - Nhạc.
- 15 tuổi đã viết bài: “MINH ĐƯỜNG PHÚ”
Ở thời gian này, Ngài đã dành hết thời giờ vào việc học, học ngày học đêm, học nát kinh thư, học làu sử sách.
Có hôm cha Ngài tìm không thấy, đêm đã khuya, rồi tìm mãi đến gốc cây thấy Ngài đang mải mê đọc đến nổi quên rằng đã sang canh ba; đặc biệt là Ngài học để hiểu biết chớ không chịu ra thi cử.
2. Một tay kiếm cao cường võ nghệ.
Lúc còn nhỏ thường hay đánh kiếm gỗ với các bạn nhỏ trong làng.
Đến Tứ Xuyên thì Ngài chỉ cho các bạn múa kiếm. Tuy còn nhỏ, nhưng đường kiếm của Ngài rất rõ nét, linh hoạt, chắc chắn như những đường kiếm của các tay thạo nghề.
Khi còn sống, mẹ Ngài không muốn con mình chơi kiếm, còn cha thì muốn thanh kiếm gỗ sau này thành bảo kiếm.
- 15 tuổi (mùa xuân 715) khi triều đại nhà Đường với niên hiệu Khai Nguyên đã bước vào năm thứ ba thì Ngài đã là tay kiếm thành thạo và đó chính là niềm mơ ước của cha từ lâu rằng: “Lớn lên con của ta sẽ vung kiếm tung hoành bốn bể.”
Có thể nói kiếm thuật của Ngài đã nổi tiếng khắp vùng, và hầu hết những cảnh núi rừng, hang động đều in dấu chân của tay kiếm lừng danh này.
Tương truyền rằng: Một hôm, Ngài được một con voi dâng lên Ngài một thanh kiếm vạn năng có khắc dòng chữ:
“Độc phá vạn quyển thư,
Hành quá vạn lý lộ.”
nghĩa là: đọc nát muôn quyển sách, đi qua muôn dặm đường, và lúc ấy bên tai Ngài nghe lời dạy rằng: “Cầm lấy thanh gươm này, con hãy xứng đáng với đời, hãy làm một con đại bàng bay khắp thế gian, tung kiếm cứu vớt muôn người để giải thoát và giành tự do cho thiên hạ.”
Sau đó không lâu, chính thanh gươm này đã hạ một con hổ dữ ăn thịt người để cứu biết bao sinh mạng khác.
- 35 tuổi (mùa hạ 735) cùng vợ con đến Nhiệm Thành (Đông Lỗ). Một hôm, trên thảm cỏ xanh, Ngài được Bùi Cửu là một tay kiếm thuật chuyên nghiệp chỉ cho Ngài những đường kiếm đặc biệt, nhờ đó mà sau này Ngài đã trở thành tay kiếm võ nghệ cao cường.
3. Một tay đàn nghệ thuật
Vào những đêm trăng sáng, Ngài thường gảy đàn dạo lên những tiếng nhạc trầm bổng du dương hoặc đầy khí thế.
Tiếng đàn thanh trong đã thố lộ một tấm lòng khẳng khái.
Tiếng đàn và thanh kiếm của Ngài đã làm quen với bọn trẻ khi vừa đến dựng nhà ở Tứ Xuyên.
4. Một con người yêu thiên nhiên.
Từ lâu Ngài đã là bạn của núi rừng, gió trăng, mây nước, rượu thơ.
- 18 tuổi, Ngài đến Đái Thiên Sơn và Đại Khuông Sơn, núi không cao lắm, mùa xuân hoa đào nở rộ thật đẹp, từ đỉnh núi Ngài thu vào tầm mắt tất cả cảnh vật của non sông tổ quốc. Bao suy nghĩ hiện về:
- Nào là trên dải đất mênh mông, biết bao máu xương cha ông đã đổ xuống để gầy dựng đến ngày nay.
- Nào là trời đất biết bao là huyền bí làm sao khám phá để hiểu biết đến tận cùng.
- Nào là thiên nhiên hùng vĩ quá, thân phận con người thật mong manh trước vũ trụ bao la, trước những hiểm nguy chực chờ…
5. Một thi sĩ kỳ tài.
Ham học, đi khắp nơi, nhìn, suy nghĩ, thiên nhiên là bạn, đó là cơ sở nguồn cảm hứng cho những vần thơ tuyệt tác của một thiên tài:
“Xuất khẩu thành thơ
Vung bút tan mây”
Tô Dĩnh, vị quan vừa nhậm chức ở Tứ Xuyên đã mến tài làm thơ của Ngài (dù Tô Dĩnh bản thân là một nhà thơ nổi tiếng), mới gặp và trao đổi mấy vần với Ngài là đã cảm phục và nói với bạn bè rằng:
“Chàng trai ấy (lúc Ngài Lý Bạch còn trẻ) quả là một thiên tài anh lệ, đặt bút xuống là thơ lên vần. Tuy chưa đến độ sung mãn nhưng đã có cốt cách riêng. Nếu chàng học thêm nữa có thể sánh với Tương Như.”
- Hứa Vũ Sư, cựu tướng quốc ở Yên Lục đã cảm thơ Ngài và nói: Quả là những vần thơ tiên “Thơ kinh phong vũ” - (gió mưa kinh ngạc). Những vần thơ mang sức sống của thời đại đã vang lên giữa nhân gian. Thơ đã có sức mạnh đập núi ngăn sông, lay chuyển cả núi rừng.
- Nguyên Tham Quân (nhỏ hơn Ngài 10 tuổi ) là con của vị quan biên phòng đã khâm phục rằng: “Trong thơ ấy nghe có tiếng suối chảy róc rách, có tiếng gió thì thầm, có cơn gió nhẹ, có màu xanh của trời, màu trắng của nước. Trong thơ ấy có cả bầu không gian vô tận, có nắng chiều nhạt dần, có cò trắng bay bay. Trong thơ ấy có tiếng đá lở, đất nhào, có phong ba bão táp, có dáng núi đứng vươn mình chọc thủng cả trời xanh. Có bước chân người khám phá những bí mật của đất trời. Có tiếng chim, tiếng cá, tiếng hổ rống, tiếng voi gầm, có ánh hồng tia nắng ban mai, có trăng sáng đồi thông.”
Biết bao là cuộc đời, là con người, là cảnh vật, cầm thú, chim muông đã đi vào thơ của Ngài làm thành một bản hòa tấu tuyệt vời giữa con người và vũ trụ.
- Ngô Quân: “Chưa thấy một ai có thể so sánh với Lý Bạch được. Mỗi lần họ Lý hạ bút quả là gió mưa sấm chớp giựt mình, cả trời đất chuyển động. Những vần thơ có sức sống làm thức dậy cả muôn loài, dù có vật muốn ngủ giấc ngàn thu.” Ngô Quân thảo tờ tấu nghị lên vua Đường tiến cử nhà thơ Lý Bạch:
“Đây là con người lừng danh vũ trụ, thông đạt cổ kim, văn võ toàn tài, lý tình đầy đủ. Nhà vua được người này khác gì nhà Hán xưa được Trương Tử Phòng.”

B. Chí hướng
Ngài đã từng thuộc làu kinh sử, thấm nhuần tư tưởng nhập thế giúp đời của Nho giáo. Trong cuộc sống nhân loại đang đòi hỏi con người phải xứng đáng với đời, góp sức mình vào xã hội. 25 tuổi cường tráng, tràn đầy hy vọng, tâm hồn rộng mở, Ngài thu hút tất cả những tinh hoa của mạch sống thời đại, bước giữa con đường thênh thang, tự do, không vướng bận công danh và thí trường.
Ngài gởi gắm chí hướng mình vào bài “Đại Bàng Phú”, hoài bão là “vào đời, cứu vớt thiên hạ bằng tài sức của mình.”
Ngài đã can đảm đối diện với tử thần để cứu người ngay gặp nạn được truyền tụng qua câu chuyện người lính tên Quách Tử Nghi gác đêm ngủ quên trong đêm mưa tầm tã để cho trộm vào kho khuân mất hơn chục thanh kiếm đồng và 2 chuông lớn.
Nghiêm Quân đòi Quách Tử Nghi ra hỏi tội sau đó lập tờ tấu lên triều đình và nhà Vua phê bản án xử trảm. Thế rồi chính Ngài Lý Bạch đưa thân mạng mình ra cứu Quách Tử Nghi ngay trước pháp đình.
Người lính được thoát chết, sung sướng đến chảy dầm dề nước mắt, cảm ơn người cứu mạng. Khi từ giã về quê, Quách Tử Nghi còn được Ngài Lý Bạch cho vàng, bạc, lụa để sinh sống.
II. Một bậc chân tu đắc đạo
Bên cạnh tài năng xuất chúng, đức độ hơn người, lại can đảm cứu người (một hành động đầy đủ nhân, trí, dũng), nhưng người đời có biết đâu trên đường Thiên Đạo Ngài còn là bậc chân tu đắc Đạo. Điều này chính Ngài đã xác nhận vào đêm 4.11.1931 tại Chiếu Minh Đàn (Cần Thơ) để khuyến tu như sau:
Ta lúc ở thế nước nhà trọng dụng, nhưng ta xét lại, chốn phù hoa ít ai hưởng đặng trăm năm cho nên ta tầm sư học đạo, đặng thành chánh quả.
Từ nhà Đường, đời Ngũ Quí nhà Tống, nhà Nguơn, nhà Minh, trào Thanh đến nay có 1300 năm dư mà ta tiêu diêu tự tại chốn Tiên cung.
Còn cuộc thế dầu cho làm đến bực Vương Hầu, Tể Tướng, ít ai hưởng lộc đến 80, chớ tuổi Tiên muôn kiếp chẳng già.
Nay ta mừng cho kẻ thế gặp cuộc Long Hoa Tam nguơn đại hội, khai xuất Nhơn Hoàng, Trời mở Đạo mầu độ tận chúng sanh.”


THỜI TAM KỲ PHỔ ĐỘ

Ngài là NHỨT TRẤN OAI NGHIÊM (trong hàng Tam Trấn). Đêm 4.11.1931, Ngài đã xưng danh bằng bài thơ chữ Hán như sau:
Thập bát niên dư tử kế truyền,
Thiên khai nhứt mạch điểm huờn nguyên,
Qui y Phật giáo phản hồi bổn,
Đại chí diệt trần thị vị tiên.
Chiết tự:
- Chữ thập (十) hiệp với chữ bát (八) là chữ mộc (木), thêm chữ tử (子) vào thành chữ LÝ (李).
- Chữ thiên (天) mà bớt đi một ngang đầu, còn lại chữ đại (大) thêm một chấm thành chữ THÁI (太).
- Chữ qui (皈) mà bớt chữ phản (反) còn lại chữ BẠCH (白).

Tức là: LÝ THÁI BẠCH ĐẠI TIÊN
Đức Lý Giáo Tông đã lý giải sâu xa bài thơ này về việc luyện đơn như sau:
Thiên khai ư Tý, địa tịch ư Sửu, chữ Tý hiệp với chữ Mộc là Kim, Kim Mộc hiệp ấy là thủy hỏa tương phối.
Thiên khai nhứt mạch là qui nhứt nghĩa là chữ Thiên bớt một nét còn chữ đại, chữ đại có 3 nét là Tinh, Khí, Thần gọi là Tam huê và điểm một chấm là Tam huê tụ đảnh.
Chữ qui bằng chữ bạch và chữ phản, nghĩa là người sanh tại trần cấu thì bị khí trược ràng buộc, cho nên chữ tâm đã nhuộm bầm đen và đỏ, nay học Đạo phải luyện cho đỏ trở lại. Trắng là bỏ chữ phản còn lại chữ bạch nghĩa là phản hồng vi bạch, cho nên phép luyện đạo từ nhất chuyển đến cửu chuyển thì cái lòng đã sạch, tâm trắng lại như hồi mới sanh.
Còn câu chót: hễ người tu mà có đại chí phủi hết cuộc trần mới gọi là Tiên
.”

Đức Giáo Tông Vô Vi Đại Đạo từ thuở mới khai Đạo cho đến nay đã dạy cho nhơn sanh không thiếu một điều gì từ việc tổ chức nền Đạo, đến nghi lễ, hành chánh, giáo lý tu tập, pháp môn tam công.
Nơi đây, chúng tôi xin nêu lên một ý Đạo quan trọng mà Ngài đã dạy cho người tín đồ Cao Đài.
Ngài đã dạy như sau:
“Người đạo Cao Đài là gương mẫu, là chiếc đò, là nhịp cầu đưa khách từ bến mê sang bến giác, là điện đài thu phát động năng thúc đẩy sự thống hiệp giáo lý, là tinh chất của Tạo Hóa kết hợp sự thương yêu cho toàn diện thế giới nhân loài.”
1. Là gương mẫu: Tấm gương sáng từ cuộc sống đời đến đạo, đó là sống Đạo, tức là tự độ; học - tu - hành để trau dồi Tâm - Hạnh - Đức - Tài theo phương pháp Tam công.
Đức Lý Giáo Tông dạy:
Là môn đệ Cao Đài Thượng Đế,
Phải dặn lòng phước huệ song tu,
Ấy là công quả công phu,
Thương người mến vật vận trù nội tâm.

Tài với đức đổi trao phụng sự,
Tâm với tài bực thứ không hai,
Có tâm mà lại có tài,
Đức Tâm Tài đủ Đạo Thầy hoằng dương.
2. Là chiếc đò:
Đây là phần độ tha.
Giúp người qua sông mê đến bến giác bằng cách đem công sức cống hiến cho đời, gọi là công quả bằng vật lực, tài lực, sức lực, trí tuệ, sự hiểu biết giáo lý.
Có tự độ được tròn đầy thì độ tha mới đạt nhiều kết quả. Vì Đạo phát trễ một ngày thì nhơn sanh chìm đắm trong tội lỗi nghiệp chướng một ngày.
Chèo thuyền Bát Nhã độ quần sanh,
Lướt dặm trùng dương vượt thác ghềnh.
Thuyền Đạo buồm trương lướt biển trần,
Vớt người chìm đắm thoát mê tân,
Phục hồi nguyên bổn nơi thanh tịnh,
Khỏi chốn luân hồi của thế nhân.
Người chèo đò cần có những đức tính như: kiên nhẫn, hy sinh, không ngại khó mới độ được người sang bến giác.
3. Là nhịp cầu đưa khách từ bến mê sang bến giác:
Chính bản thân mình là phương tiện đưa nhơn sanh sang bờ giác, tức là phải hy sinh thân mình để nhơn sanh nương vào đôi khi phải chịu nhọc, chịu đau đớn, chịu nhục vì người khác, miễn sao mục đích mình đạt được là đưa người đến bờ giác ngộ.
Do đó, những đức tánh cần có là: chịu đựng gian khổ, quên mình vì người, khiêm hạ, hy sinh những thụ hưởng ích kỷ cá nhân. Bản thân mình còn lại là nhịp cầu để nối liền tình huynh đệ, để không còn cảnh người bóc lột người.
4. Là điện đài thâu phát động năng, thúc đẩy sự thống hiệp giáo lý:
Trước kia, từ Đại Đạo phát sinh Tam giáo Đạo, nay đến thời kỳ qui hiệp, Đức Thượng Đế mở Đạo qui các con cái của Ngài trở lại nguồn gốc Đại Đạo.
Kỳ ân xá Cao Đài cứu thế,
Buổi hạ nguơn bốn bể chung nhà,
Thống truyền giáo lý tam gia,
Đạo qui chánh đạo, nhơn hòa đức nhơn.

Vì ý nghĩa cao siêu mầu nhiệm của cơ tận độ kỳ ba, của sự xuất hiện Đấng Giáo Chủ Cao Đài chính là Đức Thượng Đế, đã nói lên tất cả nhơn loại đều là con một Cha để cùng nhìn nhau là anh em.
Do đó, người tín đồ Cao Đài muốn trở thành một điện đài thâu phát động năng thúc đẩy sự thống hiệp giáo lý theo lời dạy của Đức Lý Giáo Tông, cần nuôi dưỡng tinh thần phá chấp như lời dạy của Đức Ngô Đại Tiên sau đây:
“Người tín đồ Cao Đài luôn luôn tôn trọng các xu hướng tín ngưỡng, đem tình thương hòa đồng khắp cả mọi giới, đem thiện cảm gieo rắc mọi nơi, để người người đều nhìn nhận cái lý duy nhứt là cứu thế qua khỏi cơ tận diệt hầu xây dựng hòa bình hạnh phúc nhân loại dưới ngưỡng cửa Đài Cao.”
Ngoài ra, trong tôn giáo Cao Đài, mỗi mỗi đều mang dấu ấn của Đại Đạo, từ biểu tượng Thiên Nhãn, Đấng Giáo Chủ, ý nghĩa hai chữ Cao Đài, thờ Tam Giáo - Tam Trấn đến mục đích, tôn chỉ, lập trường của nền Đạo.

Người vẫn tưởng Cao Đài tôn giáo,
Nào hay đâu Đại Đạo hoằng dương,
Gồm thâu trăm nẻo ngàn đường,
Tam nguơn chuyển thế định phương phục hoàn.

5. Là tính chất của Tạo Hóa, kết hợp sự thương yêu cho toàn diện thế giới nhân loài:
Tính chất của Tạo Hóa là đức háo sanh, là tình thương, là sự sống.
Thầy là Đấng Háo Sanh.
Thầy là Cha của sự sống.
Thầy là Cha của sự thương yêu.
Và con người là cơ thể của sự thương yêu, cho nên có tình thương, mới có bảo tồn, mất tình thương sẽ đưa đến cơ tận diệt.
Đức Lý Giáo Tông đã nói về đời mạt kiếp:
Thế sự điêu linh, lòng người ly tán, đời đạo tranh phân, tình thương đồng loại dường như không còn nữa. Đức tin đối với Thiêng Liêng tợ như mơ hồ, người đời hết hy vọng tạo một sự nghiệp gì vĩnh cửu ở ngày mai, đang vui vội sống cuồng với những gì hiện tại, đạo đức lần hồi dường như bị khinh rẻ. Đó là báo hiệu cơ tận diệt sắp đến.”

Đức Nhân là nguồn cội để làm người, đó cũng là phương thức tạo nhơn hòa trong xã hội, xây dựng giềng mối an dân thái bình trong một nước. Có khơi dậy được tình thương trong lòng mỗi con người thì mới có được sự an bình trong thiên hạ.
Do đó Thầy có dạy rằng:
“Các con thừa hành sứ mạng của Thầy, mang tất cả lời Thầy dạy và tình thương yêu nhân loại với đức háo sanh để đem đi, các con đi để thực hành, thực hành lý thuyết Cao Đài Đại Đạo.”
Nếu người đạo Cao Đài:
- Là gương mẫu -> Tự độ.
- Là chiếc đò -> Độ tha.
- Là chiếc cầu -> Độ tha.
- Tự độ + Độ tha -> Sứ mạng vi nhân.
- Là điện đài thâu phát động năng thúc đẩy sự thống hiệp giáo lý -> Sứ mạng quy nguyên.
- Là tinh chất của Tạo Hóa kết hợp sự thương yêu cho toàn diện thế giới nhân loại -> Sứ mạng tạo thế nhơn hòa.
Thực hiện rốt ráo lời dạy trên của Đức Giáo Tông, người tín đồ Cao Đài sẽ đạt thành:
- Sứ mạng vi nhân của bản thân mình.
- Sứ mạng qui nguyên của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ (Tâm linh).
- Sứ mạng tạo thế nhân hòa của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ (Nhân sanh).
Đây là một nhân tố góp tay xây dựng xã hội Thánh Đức và cũng là một tín đồ Cao Đài làm sáng danh Thầy danh Đạo.◙

Kim Dung

______________________


Học và tập theo lời dạy
của Đức Giáo Tông Vô Vi Đại Đạo về Công Phu

Huệ Ý

Đức Giáo Tông Vô Vi Đại Đạo dạy:

Từ chốn THÁI hư đến cõi trần,
Đạo mầu thanh BẠCH độ nguyên nhân,
Dầu cho KIM ngọc khôn so sánh,
Chỉ có TINH hoa một điểm THẦN.

Hôm nay, trong mùa tu Thu Phân, chúng ta học lại lời dạy của Đức Giáo Tông về nội tu:
“Bảo chư hiền vào nhập các khoá tịnh, TU LUYỆN THÂN TÂM trong thời hạn vắn hay dài, là vì
1. Chư hiền ĐÃ GIÁC NGỘ và
2. Tự nhận sứ mạng VÀO THIÊN ĐẠO ĐỂ THỰC HIỆN SỨ MẠNG ĐẠI THỪA , để TỰ GIẢI THOÁT và GIẢI THOÁT VẠN KHỔ CỦA THẾ NHÂN, thì
3. Chư hiền phải có một CÔNG PHU LUYỆN KỶ THUẦN THÀNH TỪ NỘI TÂM ĐẾN NGOẠI THỂ. Có như vậy, SỰ TU CHỨNG MỚI THỂ HIỆN BÊN NGOÀI VÀ THẦN LỰC ĐƯỢC HIỂN LỘ BÊN TRONG.
Thần lực là chủ yếu của con người, bị suy vong do bởi tâm niệm lự phóng tán.
4. Thế nên dầu trong thời hạn tịnh dưỡng, tuy CHƯA ĐƯỢC KẾT QUẢ BAO NHIÊU, nhưng nó cũng có một mục đích, một ý nghĩa. Nếu chư hiền KHÔNG NHẮM VÀO MỘT MỤC ĐÍCH THÌ CÔNG PHU KHÓ ĐẠT THÀNH,
5. Chư ma chủ sử lộng hành PHÓNG TÂM RỒI UỂ OẢI BỰC DỌC không được an ổn trong lúc công phu. Nếu thời hạn ngắn hay dài cũng COI NHƯ LÀ BỊ GIAM LỎNG, NÀO CÓ ÍCH CHI ĐÂU.
I. VẤN ĐỀ GIÁ TRỊ: TÂM - THẦN
Tịnh viên là những người giác ngộ. Người giác ngộ là người hiểu được, thấy được chân lý như thật của cuộc đời và kiếp người.
Giác ngộ chưa phải là đắc đạo. Từ giác ngộ đến đắc đạo còn khoảng đường xa. Người giác ngộ là người đang tìm cầu pháp môn để giải thoát. Tìm được chánh pháp là một cơ duyên, ân sủng. Rất đau khổ khi không tìm được minh sư mà lại gặp manh sư.
Khi công phu, chúng ta nhìn cuộc đời với một nhãn quan mới, hướng về những giá trị hướng thiện, hướng nội và hướng thượng.
Ăn, mặc, ở, danh, lợi, tình, những vật người đời cho là quý, thực chất chúng vô thường. Tiền bạc như con chim, nay nó ở, mai nó đi. Vậy đối với người tu, đâu mới là giá trị? Đức Giáo Tông Vô Vi dạy:
“Người tu hành tiến lên Đại Thừa Thiên Đạo là vong xả tục trần, XEM PHÚ QUÍ NHƯ MÂY BAY, BỎ CÔNG DANH NHƯ DÉP RÁCH. Những hình thức tổ chức bên ngoài trang trọng chỉ là những trợ duyên để hành giả thực hiện sứ mạng hoằng giáo độ nhơn, kỳ trung, không mảy may dao động.”
Trên thế gian này cái chi là quí?
- Phải chăng là giá trị vật chất?
Khi sinh thời Đức Giáo Tông đã viết:
Từ phú Khuất bình huyền nhật nguyệt,
Sở Vương đài tạ như sơn khâu.

Nghĩa là:
Thi phú của Ngài Khuất Nguyên sống mãi cùng trời đất,
Đền đài vua Sở thành gò mối lâu rồi.

- Hay giá trị văn hoá?
- Chỉ có giá trị tâm linh.
Đức Giáo Tông Vô Vi dạy:
“Chư hiền đệ, hiền muội! Trên thế gian này, nếu đem tài đức mà so sánh cũng chưa thấy ai phải hơn ai. CON NGƯỜI CHỈ HƠN NHAU Ở CÁI TÂM MÀ THÔI. Thánh nhân ngày xưa đạt đạo cũng ở chỗ đắc nhất duy tâm, chớ sự thật, các bậc thánh nhân cũng người xương thịt như chư đệ bây giờ.”

Đức Giáo Tông dạy: “Con người chỉ hơn nhau cái tâm mà thôi”. Ngài dạy chúng ta rán gìn giữ cái tâm ấy:
Phù sanh đã biết lại đeo đai,
Bỏ lợi cầu danh thế mới gay,
Có một không gìn, lo bảy tám,
Gốc cằn sao tưới ngọn nhà ai.


Nếu chúng ta xếp hàng trước Ơn Trên, Ơn Trên chỉ chấm cái tâm của chúng ta mà thôi. Cái tâm ấy làm sao biết nó khác nhau? Đức Giáo Tông Vô Vi dạy:
Chư hiền đệ, hiền muội nên hiểu, người sanh trong đời dầu ở cương vị giai tầng nào trong xã hội thế gian, cái giá trị duy nhất của con người đó là tâm đạo. Tâm đạo sẽ giúp cho con người biết hướng theo ngọn hải đăng để xuôi thuyền về bến giác. Tâm đạo cũng là vốn liếng tự hữu của Thượng Đế phát ban. Có giữ gìn được đạo tâm thì thiên tánh sẽ phát hiện để chứng quả vô sanh ở cõi trần gian, không phải nhọc nhằn tha thiết vọng cầu nơi sơn đầu hải đảo chi cả. Chư hiền đệ, hiền muội giữ gìn được đạo tâm, thì tất cả những hàng ma, ác quỉ sẽ từ từ xa lánh hoặc hàng phục trước quyền năng vô lượng của đạo tâm. Chừng đó chư hiền đệ hiền muội sẽ cảm hóa được người đời quay về nẻo Đạo.”

Mới phát tâm tu học là HỮU TÂM HƯỚNG ĐẠO.
Thời gian sau phát triển lên THÀNH TÂM HƯỚNG ĐẠO.
Kế trọn thành tâm là CHÍ THÀNH TÂM ĐẠO.
Vào công phu là hướng về TÂM TỊNH NGỘ ĐẠO.
Công phu muốn có kết quả phải NHỨT TÂM TIẾN ĐẠO.
Khi công phu chúng ta cố tiến đến chỗ TÂM MINH THẦN LINH.

Thần là quyền năng diệu dụng của Tâm, là Chủ nhân ông của mỗi chủ thể. Đức Giáo Tông Vô Vi dạy:
Nhà ai thì đó chủ nhân ông,
Có đủ quyền năng sẽ cộng thông,
Bí quyết Thánh hiền do Một cả,
Chuyên tâm chuyên nhứt đạt thời trung.
Vào đầu mỗi khoá tịnh chúng ta được nghe giảng về mục đích và ý nghĩa của khoá tu để thực hành trong tịnh đường cho có kết quả. Đức Giáo Tông Vô Vi dạy:
Chư đệ muội có biết không, đời mạt pháp, người SỐNG ĐẠO là người sống rất ung dung, rất căn bản, BIẾT HÀI HOÀ CÙNG NHỊP ĐIỆU THIÊN NHIÊN.” (Một năm có 4 mùa tu, một ngày có 4 thời tịnh, mỗi tháng có ngày thượng huyền.)
Chúng ta gạch dưới dòng chữ hài hoà cùng nhịp điệu thiên nhiên.
Ơn Trên dạy:
Tâm cùng Trời đất huyền đồng,
Thân hoà vạn hữu thoát vòng biển mê.


Mùa tu là thời gian chúng ta huân tập GIÁ TRỊ ĐÍCH THỰC tức là TÂM, tức là THẦN.
Mỗi khi chúng ta tiến đạo, cái tâm sẽ cao hơn, rộng hơn và tâm càng định, thần càng trụ, diệu dụng công phu sẽ thâm sâu hơn. Mục đích của khoá tu là:tu luyện thân tâm hầu thể hiện tu chứng bên ngoài và thần lực bên trong để giải khổ chính mình và giải khổ thế nhân. Kết quả tu chứng chính là ấn chứng hay diệu dụng của công phu.

II. DIỆU DỤNG CỦA CÔNG PHU.
Đức Giáo Tông dạy năm diệu dụng của công phu:
1. Dưỡng sanh:
Đức Giáo Tông dạy:
“Thiêng liêng dạy chư hiền nhập tịnh là để ngăn ngừa sự vọng động nội tâm và để cho lòng được ổn định thanh tịnh, trước là dưỡng sinh, sau là thông công cùng thượng giới.”
- Thân bịnh dùng VẬT (dược chất...) để trị.
- Tâm bịnh dùng PHÁP (công phu...) để trị.
- Nghiệp bịnh dùng CÔNG ĐỨC (in kinh, phóng sanh…) để trị, vì:
Linh dược nan trừ oan trái bịnh,
Thần đơn bất trị nghiệt ma tâm.
Con người bị bịnh:
- hoặc do yếu tố vật chất bên ngoài gây ra: rắn cắn, xe đụng...thuốc được dùng để trị các trường hợp này.
- hoặc do yếu tố tinh thần gây ra: lo sợ, buồn, vui, thương, ghét,...phải học pháp môn công phu để trị.
Đức Đông Phương Lão Tổ cũng dạy về tác dụng của đạo pháp như sau:
“Trước tiên là điều hòa thần khí, an định thân tâm. Thần khí, thân tâm có được điều hoà an định thì con người luôn luôn tươi nhuận khoẻ mạnh, không phải bận tâm những thời kỳ thuốc men khan hiếm.”
Công phu trong đạo Cao Đài gồm Thiền và Đơn: Tánh là tu Thiền, Mạng là tu Đơn. Đức Giáo Tông Vô Vi dạy:
Lẽ thiệt còn cao sâu hơn nữa,
Dụng xác thân cứu chữa hồn linh,
Công phu, công quả, công trình,
Hữu hình tạo lập vô hình mai sau.

Lẽ thiệt ấy nào đâu chi lạ,
Vốn liếng mình Trời đã ban cho,
Cũng nước bể cũng lửa lò,
Cũng phen thời tiết bốn mùa chuyển luân.
Có lửa, có nước, chúng ta nấu được thuốc thì còn chi bệnh hoạn:

Cái thân tứ đại ở trong đời,
Ma bịnh triền miên đệ muội ơi!
Muốn có THUỐC THẦN trừ chướng ngại,
Giữ gìn đều đặn LỬA LÒ TRỜI.

Lửa là ánh sáng xóa tan bóng đêm, là sức nóng sưởi ấm dưới trời giá buốt. Lửa gắn liền với đời sống. Từ khi biết lửa, con người giữ gìn và quí trọng lửa, không bao giờ để tắt.
Quan trọng hơn, mỗi người đều có một lò lửa trời ở trong mình. Lò này xây ở đâu? Cháy bằng củi, gas, điện loại nào? Làm sao khởi hỏa?
Muốn biết phải nhập môn cầu Đạo, ăn chay mười ngày một tháng trở lên, nộp đơn thọ pháp sẽ được hướng dẫn.

2. Thông công cùng thượng giới:
Trong lời dạy về dưỡng sanh, chúng ta đã đọc lời dạy của Đức Giáo Tông Vô Vi về diệu dụng “thông công cùng thượng giới”.
Đối với đạo Cao Đài “ĐẠO HƯ VÔ, SƯ HƯ VÔ”, nên việc thông công với Ơn Trên là vô cùng quan trọng. Mỗi người phải tự thông công mỗi ngày bằng cúng kiến, tịnh luyện. Nhờ thông công mà chúng ta kiên định niềm tin, đức tin “ĐẶT TRỌN LÒNG TIN NƠI ĐẤNG CHÍ TÔN VÀ ĐẠI ĐẠO”, mới đi hết đời tu. Đức Giáo Tông Vô Vi dạy:
Đạo lý do người biết luyện trau,
Luyện trau tâm tánh đặng thanh cao,
Thông công Trời đất xa trần tục,
Là Phật, Thánh, Tiên có khó nào.
Thông công gồm hai chiều: chiều từ dưới lên trên, hành giả phải luyện trau. Chiều từ trên xuống là sự ban ơn, chứng giám của Ơn Trên. Đức Giáo Tông dạy:
“Từng bước chân, từng việc làm, cho đến mỗi tâm tư suy diễn đều được thần minh ứng trực. Thế chư đệ muội chưa cảm nhận được sao? Có lẽ vì động tâm nên không cảm nhận Thái Bạch Kim tinh bằng Thần, mà chỉ trông Thái Bạch ở tận Linh Tiêu.”
Thanh tịnh là công tắc để thực hiện sự thông công:
Đạo cốt yếu vô vi thanh tịnh,
Dứt niệm trần lý tính hiển minh,
Vẽ chi những việc thường tình,
Tiêu hao ngày tháng lộ trình xa trông.
Thông công cùng thượng giới, tức luôn luôn liên lạc được với đài chỉ huy là bảo đảm cho phi thuyền đi đến nơi về đến chốn
Thông công cùng thượng giới là để hoàn Kim thân. Đức Giáo TôngVô Vi dạy:
Luận tánh mạng song song tu luyện,
Thiên với nhân, hòa biến Kim thân,
Đến khi rũ bỏ xác trần,
Thiên đình ngọc bảng sẵn phần vị ngôi.

3. Thấu đáo Thánh Ngôn:
Chúng ta có thể học Đạo qua nghe thuyết minh giáo lý, hoặc đọc kinh sách:
Đến chùa thất rửa lần tội lỗi,
Đọc sách kinh tắm gội linh hồn.
Đức Giáo Tông Vô Vi dạy:
“Phương pháp tham thiền tịnh luyện là phương tiện thiết yếu giúp cho phần nghiên cứu viết lách được dễ dàng thông suốt.”
Trong đạo sự phổ thông giáo lý, Đức Giáo Tông dạy hành giả về công năng đại định và trí tuệ tập thể. Công phu để minh triết bảo thân, trung thành sự đạo.
Đức Quan Thế Âm Bồ Tát cũng dạy phương pháp học tập vô cùng quí báu là thiền định:
“Hiểu đạo nơi đây chẳng những do sự học hỏi từ kinh điển, Thánh ngôn, Thánh giáo, mà lại còn hiểu do nơi tham thiền nhập định, phát huệ tâm linh. Đó là hiểu về nội tâm. Phải là bực tu hành chí chơn chí chánh, lòng được trống không, diệt trừ tư tâm bản ngã, tham vọng, đương nhiên cái chơn từ từ lố dạng và ứng hiện lên để cõi lòng thơ thới, hoan hỉ tiếp nhận, là một môn học quí vô giá.”
Đức Đông Phương Lão Tổ dạy:
“[Công phu] cho tâm linh được mẫn tuệ minh linh sáng suốt, tự chọn đường đi lối về, nẻo tắt, đường quanh của đời cũng như Đạo và am hiểu được sự rủi may tốt xấu xảy đến cho mình.”

4. Công phu tập thể là dệt tấm lưới thiêng
.
Đức Giáo Tông Vô Vi dạy:
“Về khóa tịnh (...), chư đệ muội có biết mình là những Thiên Thần đang dệt tấm lưới thiêng đó chăng? Đây là cơ hội mà Đức Lão Tổ đã dành cho chư đệ muội làm đầu mối tự độ độ tha.”
Tịnh sĩ là những Thiên Thần, hãy dệt hoàn hảo tấm lưới Thiêng.
Khi gìn giữ tâm thanh tịnh, cùng tập thể công phu, hành giả thoát ly con người phàm phu tục tử của mình, đảm nhận chức năng Thiên Thần cùng nhau xây dựng một đài tiếp sóng tiên thiên khí rồi trải ra cho chúng sinh, đồng loại hưởng mưa thuận gió hòa, quốc thái dân an, thiên hạ thái bình. Mỗi lần xuất thiền, hành giả đều hồi hướng:
Công đức tọa thiền lớn biết bao,
Phước lành hồi hướng đến nơi nao.
Đức Đông Phương Lão Tổ dạy:
“Ban ơn các khóa tịnh để mỗi tịnh viên hấp thụ phần Tiên Thiên khí. Đó là dương điển để độ thân phòng mạng và che chở những hoạn nạn bất kỳ, chớ không phải truyền pháp cho tín hữu chỉ thuần có một lý là thành Tiên tác Phật.”

5. Công phu để có thêm phương tiện độ đời.
Tu luyện phải chăng là để trốn đời? Đức Giáo Tông Vô Vi dạy:
“Tu luyện để có bửu bối giúp cho trí tuệ minh mẫn, tâm thần sáng suốt để giải quyết mọi vấn đề hành đạo cho đúng Thiên lý.
Tu luyện để diện mạo được từ ái khôi ngô, tướng đi đứng nằm ngồi thể hiện ra người có hạnh, trang nghiêm từ ái khiêm tốn, dễ gây thiện cảm lòng tin với mọi người, mà đó cũng là sức hút của nam châm do các điều kiện ấy tạo nên.
Xuyên qua cái lý đó, chư hiền đệ thấy rằng các Đấng không chỉ khuyên tu để thành Phật Thánh Tiên, mà phải tạo điều kiện để trợ duyên cho công cuộc thế Thiên hành Đạo, phổ truyền giáo lý cứu độ nhơn sanh.”
Đức Giáo Tông Vô Vi dạy năm diệu dụng của công phu để chúng ta học, hiểu, hành hầu có thêm khả năng và phương tiện lập đức, lập công trong việc phục vụ nhân quần xã hội.
Đức Đông Phương Lão Tổ cũng dạy:
[Công phu để] hội tụ điển lành, từ nội tâm phát ra lời nói êm ấm dịu dàng, dễ thương, dễ cảm, dễ chinh phục tha nhân vào đường chánh giáo.
Đó là [các] ĐIỂM CHÁNH YẾU thực tiễn của đạo pháp ngay khi còn tại thế. Còn việc thành Tiên, tác Phật đó LÀ THỨ YẾU mà thôi. Hễ công viên quả mãn, đương nhiên kết thành quả vị, nhưng đó là giai đoạn ở cõi siêu linh
.”

Công phu là diệu dụng cụ thể của tôn giáo, đó là bánh thật mà mỗi người theo sự hướng dẫn của Ơn Trên tự làm cho mình chiếc bánh thật và no thật. Đức Đông Phương Lão Tổ dạy:
“Đạo là phương pháp cứu đời thực tiễn, chớ không phải ru ngủ và cho ăn bánh vẽ. Thế nên chư hiền đệ muội phải cố gắng tánh mạng song tu để đạt đạo thực tiễn ngay tại kiếp sống này để làm gương tốt cho hậu thế sắp tới.
Nhớ rằng, mỗi đơn vị nhơn sanh đều có Thượng Đế và phép nhiệm mầu nơi nội tại, rán công phu tu dưỡng để sớm thị hiện sự nhiệm mầu đó, trước tự cứu và sau cứu tha nhân.”

III. PHƯƠNG CHÂM CÔNG PHU
Phương châm công phu nhằm vào ba điểm học, tu, hành. Đức Giáo Tông Vô Vi dạy:
“Công quả rất cần nhưng công phu càng cần thiết hơn. Có tu, có học, có chứng, có hành, thì tinh thần và thể xác mới được quân bình phát triển.
Học thì phải hiểu,
Tu thì phải chứng,
Hành phải biểu lộ đạo đức của người [chân tu].”
Có tu có huệ, có luyện có minh. Đừng ngại việc không thành, chỉ sợ lòng không gắn bó.
Hành giả học, tu, hành rồi thể nghiệm công phu.

IV. THỂ NGHIỆM CÔNG PHU
Thể nghiệm là hành giả nắm bắt được hương vị khi thưởng thức chén trà sen, là nghệ sĩ đang điều khiển phím tơ hiệp nhất giữa cảnh, nhạc, người. Muốn thể nghiệm công phu phải lần lượt:
1. Quý tâm, quý thời gian, quý sức khoẻ.
Có lúc nào đó, có người nào đó vạch kế hoạch cho mình, mấy tuổi đi làm, mấy tuổi lập gia đình, mấy tuổi con lớn, mấy tuổi lập gia đình cho con, mấy tuổi đi tu, đó là bệnh chủ quan. Bởi vì chúng ta đâu biết cái gì sẽ xảy ra năm sau, hay ngày mai, hay chút nữa đây. Đức Giáo Tông Vô Vi dạy:
“Đừng nghĩ
- việc làm nào cũng được,
- thời gian nào đi cũng được.
Dòng nước qua cầu không lưu lại. Cũng là dòng nước nhưng ngày hôm qua là hôm qua mà không phải là ngày hôm nay được.
Chư đệ muội phải lưu ý đến điểm đó.”
Về thời gian thì rất dư thừa với kẻ ở không, rất thiếu thốn cho người làm việc và rất quý báu đối với người tu. Đức Như Ý Đạo Thoàn Chơn Nhơn dạy:
“Bần Đạo cũng để lời nhắn nhủ chư hiền đệ, hiền muội đã học tâm pháp đại thừa: thời giờ nhặt thúc, định mạng có bấy nhiêu. Người xưa khổ công tu luyện hằng mấy mươi năm mới thành đạo quả. Nay chư đệ muội VỪA TU, VỪA HỌC, VỪA HÀNH, KỂ RA THÌ RẤT NHIỀU NHƯNG NHÌN LẠI THÌ CHẲNG CÓ BAO NHIÊU
. CÔNG không đủ tiêu trừ tiền nghiệp,
. QUẢ không đủ xây đắp nền móng tự thân.
. Vào đại thừa thì công phu kém cỏi, tâm tánh dễ rong chơi nên muốn hành Thiên Đạo phải chịu nhiều khảo thí.”
Ngài dạy thêm:
““Một năm có hai khóa tịnh Hạ Chí, Đông Chí mà còn thiếu sót bận rộn lu bu, hay vào cửa tịnh đường mà tâm còn ngoài ngưỡng cửa. Dầu pháp linh mà không hành công đúng mức thì làm sao thấy được chỗ linh diệu của pháp. Đạo vô vi mầu nhiệm mà chỉ học trên lý thuyết thì làm sao thấy được chỗ huyền nhiệm vô vi.”
Qua lời dạy của Đức Giáo Tông Vô Vi, chúng ta được Đức Chí Tôn đại ân xá nên trong kiếp này mới mong rán hết sức để thành công đắc quả. Hãy rán:
Nắm cây huệ kiếm gươm thần,
Dứt tan sự thế nợ trần từ đây.
Chúng ta cầm gươm bát nhã chặt xích đa thù. Đức Giáo Tông dạy:
Cơ Tạo hóa cùng thông biến dịch,
Kiếp nhơn sanh trong xích đa thù,
Vào đời phải sớm lo tu,
Biết người, biết vật công phu huyền đồng.
2. Tu phước, tu huệ, rồi phước huệ song tu.
Nhân vấn đề sức khoẻ, chúng ta học tiếp lời dạy của Đức Giáo Tông Vô Vi về tu phước và tu huệ:
“Bần Đạo lưu ý một điều sau đây: Trong số nhân viên Cơ Quan, vì sự cố gắng để làm tròn nhiệm vụ trong lúc việc nhiều người ít, nên đã bịnh hoạn, cơ thể suy nhược, không cung phụng kịp với ý chí hăng say hành đạo. Do đó, Bần Đạo phân như vầy:
Cũng nhắc lại danh từ “Tu Phước” và “Tu Huệ”. Tu phước là lập công bồi đức để làm nền tảng vững chắc cho công cuộc xây cất lâu đài tu huệ. Với tu phước này, ai ai cũng có thể làm được, từ bực hạ thừa đến trung thừa, từ không có ngày chay lạt nào đến trường chay cũng đều tu phước được cả.
Sang đến giai đoạn tu huệ là lên bực từ trung thừa đến thượng thừa và tối thượng thừa, đòi hỏi phải khép mình trong giới luật và các điều kiện cần thiết cho phương diện tịnh luyện. Trải qua giai đoạn hai phần tu phước và tu huệ đó, tuy phần hành mỗi người đều phải làm đúng qui tắc, nhưng cơ thể của mỗi người không đồng đều giống nhau về chỗ hậu thiên hữu chất. Sự mạnh yếu khỏe bệnh tất cả đều do một phần khoa học và một phần nghiệp quả của thể xác. Thế nên có nhiều người được mạnh khỏe từ giai đoạn này bước qua giai đoạn khác một cách dễ dàng vì nghiệp thân đã ít bị vương mang. Trong lúc đó cũng có nhiều người nghiệp thân quá nặng không đủ sức cung phụng cho hành giả bước lên đoạn đường thứ hai.
Câu “Đạo lý pháp môn vô lượng, chúng sanh căn trí vô lượng”. Khoảng đường rất dài, sức lực phương tiện hành giả tùy hoàn cảnh trường hợp mà đi cho vừa sức mình. Lúc khỏe thì bước mau, khi mệt bước chậm, khi đuối sức tạm dừng chân để bồi dưỡng, nhưng phải nhớ rằng, khi có điều kiện, phải cố gắng bước lên để kịp đà tiến, vì dừng bước không có nghĩa là sẽ bước lui, mà là tạm dừng chơn để phục sức lấy đà bước đến. Nhưng khi dừng chơn ở đoạn đường giao tiếp giữa hai cấp tu phước và tu huệ, PHẢI CỐ GẮNG TRỤ HÌNH TU PHƯỚC ĐỂ SỚM TRẢ NGHIỆP THÂN VÀ ĐẮP XÂY NỀN TẢNG CHO VỮNG CHẮC LẠI ĐỂ CHUẨN BỊ XÂY CẤT LÂU ĐÀI TU HUỆ.”
Tu phước nơi đây không phải tạo phước đức mà để tạo công đức. Đức Giáo Tông Vô Vi dạy:
“HY SINH MỌI TƯ HỮU CHÍNH MÌNH TRÔI THEO DÒNG NƯỚC ĐỤC ĐỂ ĐƯỢC NHẸ NHÀNG TÁCH BẾN SANG SÔNG.”
Khi tu huệ là bắt đầu bước vào hành đạo vô vi. Đức Giáo Tông Vô Vi dạy:

Hành đạo biết rằng đạo ở trong,
Biến nên vạn pháp cũng do lòng,
Tam thiên thế giới trong tay nắm,
Chính thị tâm này đạt lý không.


Khi đạt lý không là hành giả đắc nhứt. Đức Giáo Tông Vô Vi dạy:
HÀNH ĐẠO là tác năng tự nhiên thiên phú cho con người sanh cõi trần gian để tiến hoá. NGƯỜI HÀNH ĐẠO LÀ NGƯỜI BIẾT GIỮ LẤY GỐC. Có xa rời đi chăng nữa cũng biết quay trở về. Muôn sai nghìn khác là cảnh giới bên ngoài hữu hình màu sắc.
Nếu con người không chóa mắt, không theo đuổi chụp bắt thì oan khiên nghiệp chướng làm sao cám dỗ để vương vấn ràng buộc được.


3. Đắc nhứt, đắc Thần.
Thông thường ai cũng muốn số nhiều, chỉ có hai hạng sau: Người đi học thì mong hạng nhứt, người đi tu thì mong đắc nhứt. Đức Giáo Tông Vô Vi dạy:
“Lời xưa có nói: đắc nhứt vạn sự tất, nghĩa là được một sẽ được tất cả. Một là chi?
Một là Đạo. Đạo bao gồm hàm súc cả quá khứ, hiện tại và vị lai của sự lý trong cõi đời. Thiếu Đạo là thiếu Một. Một đã bỏ mất thì dầu có bao nhiêu cũng là mộng ảo, không cội, không nguồn. Trên năm mươi năm dạy dỗ, Thánh ngôn, Thánh giáo rất nhiều, chung qui cũng nhằm dạy lẽ Một đó mà thôi.”
Làm sao có thí dụ về đắc nhứt để chiêm niệm, Đức Giáo Tông Vô Vi dạy:
“Chư hiền đệ muội hãy nhìn kìa, lòng tự tín đã giúp cho người đời đi đến chỗ đắc nhứt mà mảnh đất nhỏ bé mầu mỡ này, hiện tại như trăm hoa đua nở. Loài hoa nào biết thu hút tinh hoa của nhựt nguyệt, biết tiếp nhận đủ vượng khí của đất trời thì muôn màu khoe sắc để kết quả tốt đẹp, bằng ngược lại thì sớm tàn tạ mà không thể qui trách nhiệm cho chủ vườn hoa. Chư hiền đệ muội hãy thấy chỗ đắc nhứt, đắc đạo ở hoàn cảnh bên ngoài mà thâu nhiếp chỗ đắc nhứt, đắc đạo của tâm linh.”
Cành hoa bên ngoài thì Đạo dạy nó, còn chúng ta được Ơn Trên thương nhắc nhở hoài “bảo chư hiền, bảo chư hiền....”. Chúng ta gắng sức cho xứng đáng với sự dạy dỗ của Ơn Trên, tu cho đắc nhứt, đắc đạo, đắc Thần. Đức Giáo Tông Vô Vi dạy:
“ĐẮC ĐẠO LÀ KẾT QUẢ NÊN MỘT CON NGƯỜI CHÁNH DANH, CHÁNH VỊ CỦA MỘT CON NGƯỜI.”
Hãy vui lên, về tịnh đường tức là về Thiên đường. Để hết việc thế sự ở ngoài cửa và cùng huynh, tỉ, đệ, muội dệt tấm lưới thiêng. Đức Như Ý Đạo Thoàn Chơn Nhơn dạy:
“Mỗi kỳ vào khóa tu là chư đệ muội được vào thế giới Bồng Lai. Quả thật vậy! Mà không phải ai cũng được như vậy, là bởi sao?
Nầy chư hiền đệ muội! Thiền là tâm vô niệm, định là dừng lại tất cả. Chỗ công phu này đòi hỏi hành giả phải ngày ngày tu tập để đến khi cần hòa hợp cùng vận khí cơ Thiên, mới có đủ tinh thần mà phóng phát điển lực trong cuộc điều hành vận chuyển từ nhơn thân đến vũ trụ.
Nếu công phu còn hời hợt non kém, thân thể còn bị bốn mùa tám tiết đổi thay, đời sống vật chất lại chi phối rất nhiều làm tinh thần mờ mịt. Nên
@ vào thiền, tâm chưa dứt niệm, thân thể nặng nề tê nhức, ngứa ngáy đủ điều.
@ định chưa được nên bị hôn trầm, ngủ gà, ngủ gật,
@ ngồi lưng chưa thẳng nên tấn hỏa không thông,
@ đầu cúi quá tầm, thân cong nên thối phù chưa suốt.
Đó là bịnh chung của hành giả, nên chi công phu còn non kém, cần có tịnh đường kín đáo để tránh hàn khí tà độc nhiễm vào sanh bịnh.”
Muốn thành công, Đức Như Ý Đạo Thoàn Chơn Nhơn dạy thêm:
“Lão thấy chư đệ muội rất cố gắng. Cũng cần cố gắng hằng ngày, đừng đợi đến đợt tu khóa tịnh. Khi nào không cần cố gắng mà tự nhiên thiền, tự nhiên định, vào khoá tu như vào cõi thần tiên, lúc ấy mới đủ tâm minh triết mà định đoạt tiền đồ và bảo trì hiện tại.”
KẾT LUẬN
Đức Giáo Tông Vô Vi Đại Đạo dạy:

Bần Đạo không đưa ra những gì vượt quá tầm vói của chư đệ muội. Bần Đạo cũng không bảo chư hiền phải noi gương tử đạo của Jésus. Bần Đạo chỉ khuyên chư hiền đệ hiền muội hãy làm đúng lời dạy cũ từ mấy năm qua của Ơn Trên về nội tu và ngoại tu. Những gì đã được ban trao và dạy bảo, chư hiền đệ muội hãy lấy tâm chí thành thực hành cho đến nơi đến chốn sẽ thấy được kết quả: được Trời, được Đạo, được Tâm.”

________________________

Thi hào Thái Bạch,
Con người muôn thuở muôn phương

HỒNG PHÚC


Qua một kiếp Ngài giáng trần bên Trung Quốc dưới triều đại nhà Đường, Ngài đã để lại cho hậu thế một gia tài với khoảng 20.000 bài thơ. Ngài đã được tôn vinh là một trong những đại thi hào tài hoa của phương Đông
CON NGƯỜI MUÔN THUỞ MUÔN PHƯƠNG
Trong Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ (ĐĐTKPĐ), Tam Trấn Oai Nghiêm, đại diện Tam Giáo Đạo, thay mặt Đức Chí Tôn nắm giềng mối cơ Đạo Kỳ Ba, tận độ nhân loại:
Tam Kỳ Phổ Độ cõi Nam Thiên,
Tam Trấn Oai Nghiêm nắm mối giềng,
Thay mặt Chí Tôn truyền đạo pháp,
Dắt người trở lại cõi Tiên Thiên.
Lý Đại Tiên Trưởng Thái Bạch Kim Tinh với cương vị Nhứt Trấn Oai Nghiêm đại diện Tiên giáo, Ngài được Đức Chí Tôn giao quyền thủ cơ truyền Đạo, lập luật pháp Đạo, ra các Đạo Nghị Định, Chơn truyền chấp chưởng điều hành, thưởng phạt tín đồ, chức sắc trong Đạo. Ngài cũng kiêm nhiệm vai trò quyền pháp Giáo Tông Vô Vi ĐĐTKPĐ, là Anh Cả, dẫn dắt tín đồ trong Đạo.
Ánh Thái Cực biến sanh Thái Bạch,
Hiện Kim Tinh trọng trách Linh Tiêu,
Quyền năng vưng thủa Thiên triều,
Càn Khôn thế giới dắt dìu Tinh Quân.
****
Tinh Quân thọ sắc thuở Phong Thần,
Cho đến Đường triều mới biến thân,
Thái Bạch Kim Tinh đang trị thế,
Trường Canh Trích Tử đến thăm trần.
Động Đình thi rượu đong muôn đấu,
Bồng đảo câu Tiên nắm một cần.
Vâng lịnh Ngọc Hư nay xuống thế,
Tam Kỳ độ rỗi các nguyên nhân.
Như vậy, quyền pháp của Ngài rất lớn, toàn quyền thay mặt Đức Chí Tôn điều hành công cuộc cứu độ trong Kỳ Ba Đại Ân Xá.
Qua một kiếp giáng trần bên Trung Quốc dưới triều đại nhà Đường, Ngài đã để lại cho hậu thế một gia tài với khoảng 20.000 bài thơ, Ngài đã được tôn vinh là một trong những đại thi hào tài hoa của phương Đông. Tuy nhiên, người đời thường chỉ biết Ngài là một người có tài làm thơ và uống rượu, và khi nhắc đến Ngài, người ta thường đề cập đến truyền thuyết Ngài uống rượu say đến nỗi nhìn ánh trăng dưới sông, ngỡ là thật, rồi nhảy xuống sông theo trăng mà chết. Chính vì câu chuyện về Ngài không chính xác này, cho nên khi nhìn thấy đạo Cao Đài thờ Ngài, nhiều người không tin tưởng, và thậm chí có người còn có những lời bất kính.
Ngay cả trong tín đồ Cao Đài, thành thật mà nói, do đức tin, ai cũng thành kỉnh kính yêu Ngài, nhưng ít người biết rõ về tiểu sử cuộc đời của Ngài lúc tại thế, cũng như khó có lời phản biện những ý kiến không đúng về Ngài. Từ ngày khai Đạo đến nay, Ngài giáng cơ dạy Đạo rất nhiều, nhưng không nhắc lại cuộc đời tại thế của Ngài, duy chỉ một lần vào lễ Giáng sinh năm 1925, Ngài cho một bài thi giới thiệu tóm tắt cuộc đời của Ngài:
Đường trào hạ thế hưởng Tam quan,
Chẳng vị công danh, chỉ hưởng nhàn,
Ly rượu trăm thi đời vẫn nhắc.
Tánh Tiên, muôn kiếp, vẫn chưa tàn.
Một bầu phong nguyệt, say ngơ ngáo,
Đầy túi thi văn đổ chứa chan.
Bồng đảo còn mơ khi múa bút,
Tả lòng thế sự vẽ giang san.
Bài thơ cô đọng xác nhận thời điểm Ngài xuống trần đồng thời hàm chứa sự khẳng định những chi tiết được thể hiện qua tiểu sử cuộc đời Ngài còn lưu lại trong nhiều tài liệu sách vở của người Trung Quốc, cho thấy Ngài là một Tiểu Linh Quang đã làm tròn sứ mạng “một ra đi, một trở lại” ngay trong một kiếp làm người.

TIỂU SỬ CỦA ĐẠI THI HÀO LÝ BẠCH
Sinh ra trong một gia đình đại phú thương, cha là người Hán, mẹ là người Tây Vực, thi hào Lý Bạch cất tiếng khóc chào đời nơi quê ngoại ở Toái Diệp thuộc Tây Vực. Lúc sắp sinh Ngài, thân mẫu Ngài mơ thấy đang đứng dưới bầu trời đầy sao, bỗng nghe tiếng vang rền như sấm động, rồi từ phương Đông một ngôi sao sáng rực rỡ rẽ tầng không, nhắm thẳng vào bà lao xuống. Bà nhắm mắt… khi định thần lại, bỗng thấy trong tay một vầng sáng lấp lánh. Rồi có một tiếng nói từ đâu đó vọng lại: Hãy nuốt vầng sáng này… bà làm theo, cảm thấy toàn thân chấn động và bắt đầu trở dạ. Hai ngày sau, bà sinh một con trai. Đó là năm 701.
Ngay lúc Ngài vừa mới lọt lòng, thân phụ Ngài theo tục lệ của người Hoa Hạ, lấy cung gỗ dâu và tên cỏ bồng, bắn đi 4 hướng Đông Tây Nam Bắc để mong con trai về sau sẽ thực hiện được chí nam nhi tang bồng hồ thỉ, đồng thời cũng theo tục lệ của người Đột Quyết, rắc hoa sen xanh quanh giường hài nhi. Dựa theo điềm chiêm bao nuốt ngôi sao của em gái, cậu Ngài, một người biết thuật chiêm tinh, cho rằng đó chính là vì sao Thái Bạch Kim Tinh, thay mặt cho bà ngoại đặt tên cho Ngài là Lý Bạch, biểu tự Thái Bạch.
Lý Bạch lên 3 tuổi, nói rành vừa tiếng Hán của cha, tiếng Phiên của mẹ. Lên 4 tuổi Ngài được cha hướng dẫn đọc được những chữ đơn giản. Từ bé, Ngài đã có ý nghĩ lớn lên sẽ làm kiếm khách để trừng trị bọn ỷ mạnh hiếp yếu.
Lúc Ngài lên 5 tuổi, gia đình Ngài gặp biến cố phải rời khỏi đất Tây Vực, do vua Đột Quyết có ý đồ tách khỏi sự thần phục nhà Đường có từ thời Võ Tắc Thiên Hoàng Đế, hạ mật chỉ cho các trấn tịch biên gia sản và phóng trục thương nhân nhà Hán để lấy tiền nuôi quân đội (vua Đột Quyết là cháu ngoại của vua Đường Thái Tông). Sau mấy tháng trời, đi theo nhánh phụ của con đường tơ lụa hiểm trở với núi cao, sông sâu, rừng rậm, thú dữ, vượt qua ven núi Côn Luân, gia đình Ngài mới tới được xứ Ba Thục, là vùng đất thương nhân thường qua lại. Sau khi ổn định chỗ ở tại làng Thanh Liên, huyện Chương Minh, cha Ngài đã bắt đầu trở lại với những chuyến buôn tới tận Ấn Độ, Ba Tư…và nhanh chóng phục hồi cơ nghiệp, xây dựng dinh cơ nhà cửa, hoa viên…đồ sộ. Ông còn mời họa sư thiết kế xây “một vọng nguyệt lâu” cho cậu con út, mặc dù mới lên 7, làm nơi đọc sách, gảy đàn. Ông muốn cậu con út theo nghiệp thi thư, là nghiệp của tổ tiên được dân tộc ông trọng vọng nhất. Ngài được mẹ dạy đọc sách, viết chữ, cả chữ Hán, lẫn chữ Phiên.
Ba Thục, chính là nước Thục nổi tiếng của Lưu Bị (161-222) thời Tam Quốc (Thục, Ngụy, Ngô) nay là tỉnh Tứ Xuyên, tỉnh đông dân của Trung Quốc, có diện tích hơn nửa triệu cây số vuông. Địa thế hiểm trở, có hình lòng chảo, bốn phía núi non bao bọc. Phía Nam là cao nguyên Vân Nam, phía Đông Bắc tiếp giáp với Thiểm Tây, sừng sững chạy dài từ Bắc xuống Nam là dãy núi Côn Luân làm thành biên giới tự nhiên giữa Hoa Hạ và Tây Vực, phía Đông là rặng Vu Sơn, phía Tây là Thanh Hải, Tây Tạng. Tứ Xuyên ngày xưa là vùng biên cương của Trung Hoa, đất đai khô cằn, đến thế kỷ thứ tư trước công nguyên mới được người Hán đến khai khẩn.
Đây là xứ sở của địa linh nhân kiệt, do khí thiêng sông núi đã un đúc nên những bậc kỳ tài. Tướng quốc nước Tần là Lã Bất Vi khi bị đày vào Ba Thục đã cùng môn khách viết nên bộ “Lã Thị Xuân Thu” quý báu. Ba Thục cũng là quê hương của sử gia nổi tiếng Tư Mã Thiên. Tứ Xuyên cũng được xem là quê hương của thi hào Lý Bạch vì Ngài đã sống tại đây trong suốt quãng đời thơ ấu.
Lên 7 tuổi, Ngài rất siêng học. Một lần, cha mẹ Ngài bắt gặp Ngài lên tầng trên cùng của “Vọng Nguyệt lâu” một mình đứng nhìn lên trời cao thì thầm như thể đang nói chuyện với ai đó. Ngài cho biết là nói chuyện với các vị Tiên để hỏi về những điều Ngài chưa hiểu khi học bài thơ của Khuất Nguyên; và ngay sau đó Ngài cất tiếng đọc bài thơ đầu tiên:
Nguy lâu cao bách xích
Thủ khả trích tinh thần
Bất cảm cao thanh ngữ
Khủng kinh thiên thượng nhân
(Vòi vọi lầu trăm thước
Tay hái được chùm sao
Không dám nói lớn tiếng
Kinh động Tiên trên cao)

Từ năm 10 tuổi, Ngài đã thuộc nhiều thơ cổ. Cha Ngài nhờ các khách thương từ vùng Ngô Việt, Kinh Sở mang sách về cho Ngài. Ngài đặc biệt thích sách của Bách gia chư tử, sách của Lão Tử và Trang Tử. Năm 15 tuổi, Ngài bắt đầu học kiếm thuật, và thông thạo kiếm pháp của phái Thanh Thành. Ngài xin với thầy dạy môn kiếm pháp của phái Côn Luân.Vị Thầy cho biết muốn học kiếm pháp phái Côn Luân phải học phép luyện công của Đạo gia và đọc được bộ Bảo Phác Tử của Đông Nghiêm Tử là một bậc đại sư ở Khuông Sơn.
Ngài xin phép cha mẹ đến núi Khuông Sơn ở huyện Giang Du, vùng Xuyên Bắc để tìm Đông Nghiêm Tử để xin thọ giáo. Từ đây, Ngài bắt đầu tu tập đạo hạnh và đạo pháp. Ngài dựng một thảo am ở gần thảo am của thầy. Mỗi người biệt tu một nơi vì Đông Nghiêm Tử cho rằng người học đạo phải tự mình tu tập, lời thầy chỉ là sự khai ngộ ban đầu.
Thấm thoát, đã mấy năm trôi qua, Lý Bạch đã là chàng trai 20 tuổi, siêng năng tu tập, luyện công, luyện kiếm pháp, nghiền ngẫm những pho sách quý. Thỉnh thoảng xuống núi, về nhà lấy thêm vật dụng, lương thực, tuyệt nhiên không đặt chân đến chốn thị thành. Chàng nghiền ngẫm quyển “Đạo Đức Kinh” và “Nam Hoa kinh” và đặc biệt thích quyển “Tọa vong luận” của Tư Mã Thừa Trinh là đạo sĩ nổi tiếng đương thời. Chàng đọc đi đọc lại đến thuộc lòng quyển “Bảo Phác Tử” của Cát Hồng còn được gọi là Cát Tiên Ông.
Trong thời gian ở đây Ngài còn có duyên học được kiếm pháp của phái Tây Vực do Công Tôn Đại Nương là một kiếm sư tinh thông kiếm pháp của cả hai phái Nga Mi và Tây Vực, vì muốn trả thù nhà nên vào làm vũ sư dạy kiếm khí cho đội vũ công của triều đình dưới thời thịnh Đường. Sau khi đã giải quyết mối thù gia tộc, bà trở về đời sống tu hành của một Đạo cô mai danh ẩn tích.
Rồi mẹ Ngài qua đời. Ngài trở về, cất một thảo am bên cạnh mộ phần của mẹ, cư tang ròng rã suốt 3 năm trời. Ngày mãn tang mẹ, Ngài trở về nhà, cùng cha lên Vọng Nguyệt lâu, nhận thanh bảo kiếm của người cậu gởi tặng lúc rời đất Tây Vực và cây bút của mẹ để lại, rồi xin phép cha và thầy Đông Nghiêm Tử lên đường về Trung Nguyên, mong đem sở học của mình giúp đời an dân. Năm ấy Ngài 25 tuổi.
Năm 27 tuổi, Ngài được con trai cố Tướng quốc thời Cao Tông Hoàng Đế gả con gái là Hứa Nhược Liên, một người con gái thông minh, tài đức, sớm thuộc thi thư, lại có tâm muốn việc tu hành, theo Phật đạo, nhưng không dám trái ý cha mẹ, kết duyên cùng chàng Lý Bạch. Hai người trở thành đôi tri kỷ, sống những tháng ngày hạnh phúc tao nhã êm đềm bên hồ Động Đình cảnh đẹp như tranh.
Với biệt danh là “cư sĩ Thanh Liên”, Ngài vẫn sống đời tu hành, nhưng thường xuôi ngược hành hiệp cứu giúp những ai lỡ bước. “Chàng đã từng đến viếng thành đô, thăm đền Vũ Hầu thờ Khổng Minh, viếng Bạch Đế thành khóc Lưu Bị, lên núi Thanh Thành đọc sách nhớ Trương Đạo Lăng. Lên núi Nga Mi bên bờ Mân giang ngắm trăng, nghe Thục Tăng Tuấn đàn cầm. Nơi nào chàng đi qua, nơi đó nổi tiếng vì chàng đã để lại dấu ấn với những bài thơ đẹp như sự tạo tác của hóa công…” Ngài vẫn canh cánh bên lòng lời dặn của cha: “Phải lập nên sự nghiệp giúp đời”, nhất là trên đường lãng du Ngài đã chứng kiến những cảnh bất công, dân tình khổ sở, nạn quan lại tham nhũng hoành hành. Ngài quyết định từ giã vợ con tìm đến Trường An, mong đem tài năng giúp vua chỉnh đốn triều cương, trị nước. Nhưng rồi khi đến Trường An, nhìn thấy cảnh vua quan đắm chìm trong nhã nhạc ca xang, Ngài không thể dừng chân, lại tiếp tục đi về phương Bắc, tiến ra quan ải với ý định trừ giặc giúp dân:
Nguyện vung thanh bảo kiếm
Quyết chém giặc Lâu Lan.
Vượt sông Hoàng Hà, đến ải Đồng Quan, định đầu quân dẹp giặc. Vừa đến nơi, Ngài đã kịp cứu tướng tiên phong Quách Hữu Nghi sắp bị hành hình vì tội khinh địch để hao quân, mất kiếm triều đình. Ngài cướp pháp trường, xin thế mạng để cứu tướng. Khi biết được danh tánh “Thanh Liên Lý Thái Bạch”, nguyên soái Kha Thư Hàn nguôi dịu cơn giận tha Quách Tử Nghi, vì lúc bấy giờ danh tiếng Lý Bạch về thơ đã lan truyền khắp Trung Quốc, thiên hạ lại biết chàng xuất thân là đạo sĩ và kiếm khách là những giới được trọng vọng, kính nể, khâm phục.
Nhưng rồi một lần nữa Ngài nhìn thấy nỗi cơ cực của những người lính trường chinh, những cuộc xung sát đẫm máu khiến cả hai bên đều hao binh tổn tướng. Một chiếc ấn phong hầu có được là bao nhiêu binh sĩ phải phơi thây nơi chiến trường! Ngài cảm thấy sự vô nghĩa trong các cuộc chém giết lẫn nhau giữa con người, nên không còn muốn tham gia nữa, Ngài viết bài thơ “Chiến Thành nam” có những câu:
Sa trường đâm nhau chết
Ngựa ai ngơ ngác nhìn hí trời…
(…)
Binh lính thây bón cỏ…
(…)
Và những câu cuối:
Mới hay gươm đao là vật gở
Thánh nhân bất dắc dĩ mới dùng…
Ngài trở về gia đình thì vợ Ngài đã mất, bỏ lại 2 con thơ dại. Ngài dẫn con từ biệt vùng quê An Lục với bao nhiêu kỷ niệm, ngược đường lên miền Bắc, ẩn cư trong núi. Thời gian này, Ngài lại nhận được chiếu thư của vua Đường Minh Hoàng cho mời Ngài do Quận Chúa Ngọc Chân, từng là đồng đạo của Ngài tiến cử. Ngài rất vui mừng vì nghĩ rằng đây là dịp để Ngài đem tài giúp vua an bang định quốc.
Cũng nên nói thêm, “Đường Minh Hoàng là một vị Hoàng đế anh minh, đưa đất nước Trung Hoa đến một thời đại phú cường chưa từng thấy trong lịch sử. Lãnh thổ Đại Đường mênh mông, vượt cả đời Hán. Nền chính trị khai minh, kinh tế phồn thịnh. Con đường tơ lụa từ Trung Quốc thông tận La mã bên bờ Địa Trung Hải, thương nhân Tây Vực đến Trường An tấp nập như hội. Những đàn lạc đà chở bông Á Rập, chà là và bảo ngọc Ba Tư, ngà voi, hồ tiêu Ấn Độ… đổ đến Trường An.
Trường An đầy của báu trong thiên hạ… Văn hóa nghệ thuật cũng phồn vinh chưa từng thấy. Kiến trúc chùa chiền, điêu khắc tôn giáo… điểm tô cho Trường An bao kỳ quan mới. Âm nhạc và vũ đạo Tây Vực theo nghệ nhân vào khắp mọi miền đất nước Trung Quốc. Khắp nơi rộn tiếng đàn ca, dập dìu muôn điệu múa…Và thơ, đi vào nếp sống, đi vào lời ăn tiếng nói của mọi nhà. Thơ là không khí của thịnh Đường. (…) Hoàng đế làm thơ, các quan đại thần làm thơ, tăng ni, đạo sĩ làm thơ, đến cả người hái củi, người đánh cá, ca kỹ và trẻ em cũng làm thơ. Trên cái nền rộng lớn ấy, những đỉnh núi thơ cũng mọc liên tiếp(…) trong đó Lý Thái Bạch được coi là Thái Sơn Bắc Đẩu của thi đàn.”
Ngài được vua tiếp đón trọng thể, phong chức Hàn Lâm Cung Phụng để làm thơ tô điểm cho cảnh thái bình thạnh trị của Đại Đường. Ngài lại thêm một lần hụt hẫng vì vua không quan tâm đến tài kinh bang tế thế của Ngài. Được vua phong chức mà Ngài cảm thấy bị xúc phạm, chán ngán, uống rượu một mình dưới trăng.
Trong thời gian này, do bởi nhà Đường đắm chìm trong các cuộc vui chơi, lơ là việc triều chính, vua nước Mạc Hiệt ở vùng biên thùy từ trước đến nay vốn thần phục nhà Đường, mới nảy sinh ý định đem quân xâm lấn đất Trung Nguyên. Trước khi xuất quân, vua nước này phái sứ thần đem thư đến triều đình Đại Đường. Thư viết bằng chữ Phiên. Trong triều không ai đọc được, có người nhớ đến Lý Thái Bạch, liền tâu lên vua cho mời Lý Học sĩ. Ngài đến đọc thư, đối đáp với sứ giả bằng tiếng Phiên. Vua truyền Ngài thảo chiếu thư gởi vua Mạc Hiệt. Nhân dịp này, Ngài viện cớ nóng nực, xin vua cho Cao Thái Giám, một tên quan xu nịnh trong triều, cởi giày cho Ngài, rồi Ngài mới thảo chiếu thư. Cao Lực Sĩ tức giận, nhưng không thể làm khác hơn, thề sẽ trả thù. Nhờ tài của Ngài, vua quan Phiên nể phục, bỏ ý định đem quân gây hấn.
Lý Bạch được vua Đường trọng vọng nhưng chỉ được mời vào cung khi vua dự tiệc cùng Dương Quý Phi, để Ngài làm thơ ca tụng những lạc thú cung đình, chứ không được tham gia vào những việc triều chính quan trọng. Nhà vua lại bị đám quan xu nịnh vây quanh. Ngài chán chường xin từ quan. Ngài bộc lộ trong bài Hành lộ nan: muốn giúp vua an bang định quốc, xong rồi trở lại bến Vũ Lăng, ẩn dật chốn lâm tuyền, tức công thành thân thoái. Tiếc rằng công chưa thành. “Nhưng cung đình chẳng phải là nơi cho đại bàng vỗ cánh. Ngài là đạo sĩ. Ngài là hiệp khách. Ngài là thi nhân của trời mây sông núi. Ngài sẽ trở về với sông núi trời mây, với ân tình bằng hữu.”
Vua truyền mở quốc khố, ban vàng bạc cho Ngài, Ngài không nhận. Vua tặng cho Ngài một đạo kim bài như là chiếu thư thông hành của vua để Ngài có thể đi bất cứ nơi đâu, đồng thời vua truyền lệnh cho các quan địa phương phải cung ứng cho Ngài những gì Ngài cần. Năm ấy Ngài 44 tuổi.
Trên đường hành hiệp ruổi giong, một lần nọ, Ngài ra tay nghĩa hiệp cứu giúp một người thoát khỏi ám khí của các tên cường đạo, được người này mời về nhà, thì mới biết là hậu duệ kế thừa cơ nghiệp của quan tể tướng dưới thời Võ Hậu. Người này có một người chị gái thành thạo kiếm pháp và thư pháp, tên là Đạo Tĩnh cho biết là đã chờ đợi Ngài suốt cuộc đời. Cảm kích trước tình cảm của bà, Ngài quyết định tục huyền. Hai người ý hợp tâm đầu vì cùng đi một con đường tu hành. Họ là vợ chồng mà như đôi bạn. Ngài lại có người chăm sóc con cái như mẹ ruột. Tuy nhiên niềm vui chưa được bao lâu thì con gái lớn của Ngài mất, làm cho Ngài thêm một lần khổ đau.
Rồi An Lộc Sơn, nghĩa tử của vua Đường làm phản khởi binh, vua phải chạy khỏi hoàng cung, tiếp theo là những cuộc thanh trừng xảy ra trong triều đình, sự tranh giành ngôi báu giữa các vị Hoàng tử dẫn đến đại nạn cho Lý Bạch. Con thứ của vua định đem quân dẹp loạn, cho mời Lý Thái Bạch cùng tham gia, bị Hoàng tử Đông cung khép tội mưu phản giết chết, Ngài bị liên lụy, nhưng được bạn bè can thiệp xin tội nên chỉ bị lãnh án lưu đày biệt xứ. Ngài gởi đứa con trai bệnh tật lại cho người vợ sau nhờ chăm sóc. Tuy nhiên, trên đường đi đày, nửa chừng, Ngài được lệnh đại xá quay về.
Những năm tháng cuối đời, được tin quân triều đình đi dẹp loạn rợ Hồ, Ngài lại tình nguyện lên đường “nguyện làm một kỵ binh, vung gươm diệt rợ Hồ.” Nhưng rồi qui luật thời gian của cõi nhị nguyên đã cản bước người kiếm khách. Ngài lâm bệnh. Một buổi tối Ngài mời cả nhà lên thuyền ngắm trăng trên dòng sông Thái Thạch. Ngài nâng chén rượu mời trăng. Vầng trăng soi mình trong chén rượu. Ngài uống vầng trăng, rồi nhún mình nhảy xuống giòng sông.
Sau đó, Ngài bệnh nằm liệt cả tháng ròng. Một buổi chiều, ngài bỗng cất giọng ngâm bài “Lâm Chung ca”:
Đại bàng vút bay động tám phương
Giữa Trời gãy cánh sức khôn lường
Dư phong còn chuyển lay vạn thế…
Rồi Ngài nói:
-“Người đời gọi ta là thi tiên. Ta không nhớ đã viết mấy ngàn bài. Mà cũng như ta chưa viết lời nào. Ta chỉ đọc thơ của Đất Trời cho thế gian nghe.”
Và Ngài bỗng đưa tay lên Trời khẽ vẫy:
-“Cá kình đến đón ta đấy ư? Thượng Đế chờ ta về đọc thơ của thế gian cho cõi Trời được sự sống của con người.”
Đạo Tĩnh, phu nhân của Ngài lúc bấy giờ cảm giác như thi tiên đang đắm mình trong âm thanh của im lặng vĩnh cửu…

NHỮNG ĐIỀU RÚT RA TỪ THÂN THẾ, CUỘC ĐỜI CỦA ĐẠI THI HÀO LÝ BẠCH

Cuộc đời của Ngài cũng bình thường như bao nhiêu con người khác trên thế gian, cũng vẫn là những hạnh phúc mong manh xen lẫn khổ đau của kiếp người; vẫn là chuỗi tiếp nối của sự hợp tan-tan hợp, vốn là qui luật của cõi tạm trần ai. Dù là một bậc đại nguyên căn, Ngài vẫn không tránh khỏi những trắc trở trên bước đường trần thế trong sứ mạng làm người, nhưng Ngài được hưởng phúc, cả đời không phải lao tâm khổ tứ vì chuyện áo cơm.
Đường trào hạ thế hưởng Tam quan,
Chẳng vị công danh, chỉ hưởng nhàn.
Tuy nhiên, sống giữa những điều kiện thuận lợi về vật chất trong khung cảnh hưởng thụ của triều đình, Ngài vẫn tỏ rõ được tính chất “cư trần mà bất nhiễm trần”, không hề bị vật chất lôi cuốn làm mê đắm, ngược lại, Ngài vẫn luôn giữ được điểm Đạo tự hữu và thực hiện sứ mạng qui nguyên của một Tiểu Linh Quang qua việc Ngài tầm thầy học đạo, tu theo Lão giáo, tu Tiên ngay từ thuở tuổi còn thanh xuân, cho nên: “Tánh Tiên, muôn kiếp, vẫn chưa tàn.”
Về nhân đạo, Ngài là một người con hiếu thảo, ba năm ròng rã thọ tang mẹ, không chút lãng xao. Ngài cũng là một người chồng chung tình. Khi bị đi đày, Ngài không quên xin ghé mộ phần của vợ bên Động Đình Hồ để thắp nén hương tạ lỗi với người vợ quá cố và đốt tặng quyển thơ Ngài đã viết cho bà trong suốt 20 năm. Đối với ân tình bạn hữu, Ngài cũng đã trọn nghĩa tri âm.
Ngài lại là một kiếm khách luôn hành đạo giúp đời. Giúp người tiền bạc, ngay cả hy sinh thân mình để cứu mạng cho người khác. Ngài không chỉ là nhà thơ như người đời đã biết, mà Ngài còn là một vị đạo sĩ, là một trang kiếm khách. Điều này thể hiện rất rõ qua bài thơ “Nga Mi Sơn nguyệt ca”, viết về Nga Mi là ngọn núi cao hơn 3000m, nằm ở phía nam tỉnh Tứ Xuyên, cách Thành Đô 160km, với đỉnh cao nhất là Vạn Phật Đỉnh (3.099m). Trên đỉnh núi mây mù bao phủ quanh năm, với vách núi chập chùng cao như dựng ngược. Thác đổ nước trắng xóa xuống những con suối sâu chảy lẫn trong lá. Bài thơ có câu: “Nga Mi cao xuất Tây Cực Thiên, la phù trực dữ thanh minh tế” (Ngọn Nga Mi cao quá trời Tây phương cực lạc, Bao la cây cỏ khoảng trời xanh), mà theo Nguyễn Tường Bách, tác giả quyển Mùi Hương Trầm, “nếu không tới Kim Đỉnh thì không thể nào thấy được “trời xanh” vì xung quanh toàn là vách núi. Lên đó để ngắm trăng, nghe đàn hẳn phải là người có sức của lực sĩ.”
“Một bầu phong nguyệt, say ngơ ngáo”: phải chăng tâm Ngài đã hòa quyện cùng gió cùng trăng, huyền đồng cùng vũ trụ. Người đời cứ tưởng Ngài say men rượu, nhưng thực ra Ngài đã đạt đến tâm vô phân biệt của người hành giả trên bước đường công phu tu luyện.
“Bồng đảo còn mơ khi múa bút”, có phải chăng đó là ý nghĩa của câu nói: “Ta chỉ đọc thơ Trời Đất cho thế gian nghe” lúc Ngài sắp rời bỏ nhục thể để trở lại chốn quê xưa và “Thượng Đế chờ ta về đọc thơ của thế gian cho cõi Trời được sự sống của con người” chính là ẩn chứa huyền nghĩa sâu xa của tinh thần “Thiên Nhân hiệp nhứt”, nói lên ý nghĩa con người hiện hữu nơi cõi tạm trần ai chỉ là để thay Trời để hữu hình hóa cái vô vi, hoàn thành công cuộc hóa sanh trưởng dưỡng muôn loài của Đấng Tạo Hóa, trong đó, con người là Tiểu Thiên Địa phải làm tròn trách nhiệm phụng sự cuộc đời, dựng xây xã hội trong chí nguyện của một con người đúng nghĩa: “Tả lòng thế sự, vẽ giang san.”
Ngài đã trở nên “CON NGƯỜI MUÔN THUỞ MUÔN PHƯƠNG” và đã minh chứng trong Tam Kỳ Phổ Độ với lời dạy: “Khêu tỏ lý đồng nguyên và qui nguyên, khai sáng tâm linh, đưa con người lên tầm vóc Đại Đạo, ngước mắt nhìn lên bầu trời to rộng, vượt ra đại dương trời nước bao la, chắp cánh bay bổng khắp bốn phương trời để phục vụ nhân loại, phụng sự Thiên cơ, phụng sự Đại Đạo, làm theo lòng Trời Đất.”

CON NGƯỜI MUÔN THUỞ MUÔN PHƯƠNG

Theo giáo lý Cao Đài, Con Người Muôn Thuở Muôn Phương, là con người vượt khỏi giới hạn thời gian và không gian, linh hồn trở nên bất tử. Tuy nhiên, chữ “bất tử” có nghĩa tích cực, không giống với quan niệm của người đời. Bất tử là còn sống, còn hiện hữu, còn vận động, chứ không có nghĩa bất tử đơn thuần chỉ là “không chết”.
Con Người Muôn Thuở Muôn Phương là một khái niệm đặc biệt trong ĐĐTKPĐ. Mặc dù Thánh ngôn Thánh giáo không đề cập đến khái niệm này một cách trực tiếp, nhưng có thể nói, qua hình thức lập giáo, qua phương cách dạy Đạo của các Đấng Thiêng Liêng từ cõi vô hình, qua con đường tu hành học Đạo mà Đức Cao Đài đã vạch ra, và nhất là qua tôn chỉ và mục đích của ĐĐTKPĐ, ý nghĩa của phạm trù “Con Người Muôn Thuở Muôn Phương” được biết đến không chỉ nhằm minh định sự hằng hữu của các vì Giáo tổ đã từng chứng quả vô sanh độ đời từ mấy ngàn năm trước, mà còn xác quyết sự bất tử linh hồn của những bậc “siêu xuất thế gian” mà tuổi tên đã từng lưu truyền hậu thế như là những bậc vĩ nhân trên đường thế đạo.
Con Người Muôn Thuở Muôn Phương là những con người mà linh hồn đã được bước vào cõi siêu xuất thế gian, huyền đồng cùng Trời Đất, không còn bị lệ thuộc bởi không gian và thời gian, có đủ quyền năng hành đạo giúp đời, độ dẫn chúng sanh. Nói một cách dễ hiểu, đó là những con người đã đắc các quả vị Thần Thánh Tiên Phật.
Đức Chí Tôn khai mở ĐĐTKPĐ, không chỉ một mình Ngài lâm trần mà tất cả chư Phật Tiên Thánh Thần đều cùng theo Ngài đồng hành sứ mạng độ rỗi chúng sanh. Đây là một sự kiện hi hữu chưa từng có trong lịch sử loài người nói chung, lịch sử tôn giáo nói riêng. Như vậy có thể nói, kỷ nguyên Tam Kỳ Phổ Độ là thời điểm gặp gỡ hội tụ của những Con Người Muôn Thuở Muôn Phương để cùng thực hiện sứ mạng dẫn dắt con người bước sang đời Thượng nguơn Thánh đức sau khi bước qua một cuộc sàng sảy vĩ đại gọi là Đại Hội Long Hoa.
Làm thế nào để trở nên Con Người Muôn Thuở Muôn Phương?
Qua thân thế và cuộc đời của Đại thi hào Lý Bạch cũng như các Đấng hiện hữu dạy đạo trong Tam Kỳ Phổ Độ, chúng ta có thể rút ra được bài học thực tiễn: con người tại thế nếu biết giác ngộ tu hành, thực hiện những điều Thiêng Liêng chỉ dạy cũng sẽ trở nên Con Người Muôn Thuở Muôn Phương tức là đắc được quả vị nơi cõi vô sanh vô diệt.
Để trở nên Con Người Muôn Thuở Muôn Phương, điều kiện đầu tiên và căn bản là phải vượt qua được ngưỡng cửa siêu xuất thế gian. Bước qua được ngưỡng cửa đó, chưa hẳn là đã đạt được sự giải thoát, nhưng chắc chắn có cơ hội tiếp tục tu hành để đi đến chỗ trở thành Con Người Muôn Thuở Muôn Phương, cho dù con đường tu hành không có nhiều cơ hội thuận tiện như lúc còn trong kiếp hữu hình. Bởi vì, có những linh hồn đã đắc quả vị ngay sau khi rời bỏ nhục thân nhờ công đức cao dày khi còn tại thế nhưng cũng có trường hợp phải tiếp tục tu hành nơi cõi hư vô mới dần dần tăng tiến đến các phẩm vị của sự giải thoát như từ Thần, lên Thánh, rồi Chơn Tiên…
Nhưng làm thế nào để có thể bước qua ngưỡng cửa đó? Có thể trả lời ngay. Đó chính là phải đạt được sự vong ngã để bỏ đi lòng vị kỷ, không còn những tham vọng riêng tư, không còn lòng ích kỷ chỉ nghĩ đến riêng mình. Một người bất tử có thể hiểu là được lưu danh thiên cổ nhưng chưa hẳn trở thành Con Người Muôn Thuở Muôn Phương. Một Tần Thủy Hoàng đã để lại cho nhân loại cả một kỳ tích “Vạn Lý Trường Thành”; cũng như cha ông là Lã Bất Vi đã soạn nên quyển “Lã Thị Xuân Thu” vô cùng quý báu nhưng cả hai người đều không làm nên được Con Người Muôn Thuở Muôn Phương, bởi vì động cơ làm nên những công trình đó là ý đồ nhằm phục vụ cho lợi ích cá nhân, củng cố bảo vệ quyền lực của chính mình. Cũng như rất nhiều nhân vật lịch sử đã được người đời truyền tụng nhắc nhở như một Võ Tắc Thiên Hoàng Đế tài ba đã dựng nên cả một triều đại nhà Đường huy hoàng; một Thành Cát Tư Hãn, vang danh bách chiến, bách thắng, hay những vị Pharaon tạo nên những Kim Tự Tháp của Ai Cập làm gia tài cho nhân loại nhưng linh hồn họ không bất tử. Họ chỉ ghi lại một dấu ấn trên con đường mà họ đã đi qua nơi hữu giới này. Bởi vì những gì họ làm được đều không phải xuất phát từ tinh thần vô ngã, cống hiến cho đời, mà ngược lại, bắt nguồn từ tham vọng riêng tư nhằm phục vụ quyền bính cá nhân, lợi ích của gia đình dòng họ…
KẾT LUẬN
Trong ĐĐTKPĐ, không chỉ có các vị Giáo Tổ hay các Đấng tu hành đắc quả mới được theo Thầy trong công cuộc tận độ kỳ Ba. Rất nhiều các vị Phật, Tiên, Thánh mà trước đây được biết đến với tuổi tên lưu truyền như những vị anh hùng dân tộc như Đức Quan Thánh, Đức Thánh Trần, Đức Lê Đại Tiên, Đức Phan Thanh Giản… hay các vị danh nhân văn hóa như Đức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn, Đức Giác Minh Thánh Đức Đoàn Thị Điểm… đều đã hiện diện với tư cách của những Con Người Muôn Thuở Muôn Phương, có đầy đủ quyền năng giúp Thầy trong công cuộc tận độ, chuyển đời hạ nguơn sang thánh đức.
Lẽ tất nhiên, chúng ta không thể nào hiểu hết được lẽ huyền nhiệm bí mật của vũ trụ nhưng dưới cái nhìn còn vô minh thiển cận hữu hạn, có thể kết luận nếu con người đã hoàn thành được sứ mạng lập đời và đã bỏ lại thế gian tất cả những tham cầu ham muốn vị kỷ, thì chắc chắn sẽ bước qua được ngưỡng cửa siêu xuất thế gian để tiếp tục vượt lên những nấc thang cao hơn trên đường tiến hóa và sẽ trở nên những Con Người Muôn Thuở Muôn Phương bất biến trường tồn cùng vũ trụ.
___________________________

Tình Sư Đệ
Thiện Hạnh

Đức Lý Đại Tiên Trưởng Giáo Tông Vô Vi Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, trong một kiếp xuống trần là đại thi hào Lý Bạch (701-762) vào đời nhà Đường (Trung Quốc). Ngài sanh trưởng tại làng Thanh Liên, huyện Chương Minh thuộc xứ Ba Thục (nay là tỉnh Tứ Xuyên). Tương truyền rằng bà mẹ nằm mộng thấy sao Trường Canh rơi vào mình và hạ sanh Ngài, vì thế Ngài lấy tên tự là Thái Bạch (tức là sao Trường Canh). Người đời cũng gọi Ngài là Lý Thanh Liên.
Noël năm 1925, Ngài giáng cơ xác nhận kiếp giáng trần trên như sau:
Đường trào hạ thế hưởng tam quan,
Chẳng vị công danh, chỉ hưởng nhàn.
Ly rượu trăm thi đời vẫn nhắc,
Tánh Tiên muôn kiếp vốn chưa tàn.
Một bầu phong nguyệt say ngơ ngáo,
Đầy túi thơ văn đổ chứa chan.
Bồng đảo còn mơ khi múa bút,
Tả lòng thế sự vẽ giang san.
Đức Lý cũng đã khải thị nguyên vị của Ngài phát sanh từ Thái Cực và nắm giữ quyền năng trên Thiên Cung như sau:
Ánh Thái Cực biến sanh Thái Bạch,
Hiệu Kim Tinh trọng trách Linh Tiêu,
Quyền năng vưng thuở Thiên triều,
Càn khôn thế giới dắt dìu Tinh Quân.
TỪ TÒA THÁNH TÂY NINH LÚC BAN SƠ
Khi nền Đại Đạo được Đức Chí Tôn khai minh tại Việt Nam vào năm Bính Dần (1926), Đức Lý Thái Bạch giữ trọng trách là Nhứt Trấn Oai Nghiêm thay mặt cho đạo Tiên trong Tam Kỳ Phổ Độ. Cũng trong năm này, Ngài nhận thêm một trọng trách nữa là Giáo Tông Vô Vi Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ . Ngay sau khi các môn đệ Cao Đài được Đức Chí Tôn khải thị việc phó thác quyền pháp cho Đức Lý; trong phần tái cầu, Ngài đã giáng điển khuyến dụ như sau: “Từ đây Thầy đã giao quyền thưởng phạt về nơi tay Bần Đạo, vậy các đạo hữu khá hết lòng lo lắng, vun đắp nền đạo cho vững vàng, hiệp ý với Thiên cơ mà bước lần lên địa vị cao thượng. (…) Ai hữu phước thì địa vị cao thêm, ai vô phần thì bị đọa Tam pháp. Phước phần cũng khó lựa người, rủi rủi may may đừng trách nơi Bần Đạo.”
Đến năm Canh Ngọ (1930), trong thời buổi thử thách cam go của nền Đạo, Đức Giáo Tông đã phân định quyền pháp nghiêm minh, Ngài đã bày tỏ như sau: “Lão nhứt định giữ nghiêm luật pháp, vậy thì Lão hành chánh cứ lấy công bình vô tư làm mực thước, Lão chẳng vì thương riêng mà che chở, chẳng vì ghét riêng mà hành phạt. Lão nói thiệt rằng: Đạo vốn của toàn cả chúng sanh, Lão chẳng lẽ lấy tư mà làm công cho đặng. Lão phải chấp chánh quyền hành, công thưởng tội trừng cho đáng lý, chẳng phải ngửa nghiêng cơ đạo mà buộc đặng Lão tùng đời. Lão lấy quyền vô vi Càn Khôn làm biểu hiện, Lão chỉ vì tình nhau mà cho chư hiền hữu hiền muội biết trước rằng: Đừng ỷ công mà cả lòng khi lịnh. Lão nhứt định chẳng hề tha thứ bao giờ, nên thì để, hư thì trừ; chư hiền hữu hiền muội đừng trách Lão nghiêm khắc nghe!”
Trong thời gian lập Tân Luật, Đức Lý đã nghiêm khắc phê phán chư chức sắc đại thiên phong: “Th. Tr. Nh., hiền hữu khai hội trọn ngày chẳng có chi là hữu ích hết. Việc tán thành Tân Luật nếu Thầy để cho Lão nội trong hai giờ hoàn thành tất cả. Ngặt một điều là nếu Lão lập Luật, chẳng một ai trong hàng đạo hữu hành đạo đặng.”
Đọc qua những trang sử đạo chúng ta có thể cảm nhận được trong thập niên 1926-1936 của đạo Cao Đài, Đức Lý với cương vị là Giáo Tông, là người Anh Cả Vô Vi buộc lòng phải giữ trọn quyền pháp cho thật nghiêm minh để ổn định cơ đạo lúc bấy giờ. Chúng ta có thể minh họa vài thí dụ về sự nghiêm khắc đó.
Trong sử đạo có ghi lại một đoạn thánh giáo dạy một vị chức sắc đại thiên phong Hội Thánh Cửu Trùng Đài lúc bấy giờ. Đức Lý đã dùng lời lẽ rất cương nghị và chung quyết như sau: “Th. Tr. Nh., hiền hữu nghe Lão dặn phạt há. Nếu chẳng vậy thì quyền Lão để trị ai? Không một điều nào Thầy dặn hiền hữu tuân theo. Thử đọc Thánh ngôn lại thì là cử chỉ hiền hữu sái hết. Hiền hữu không tuân mạng lịnh Thầy, ai tuân? Hiền hữu lỗi trước sau trị ai? Phải làm gương cho em út thì mới là Anh Cả. Cái quyền thế mình, nó cũng đồng với hình phạt mình, biết lỗi mình mới đặng trị lỗi người. Nghe à! Nội đêm nay phải quỳ hương.”
Có trường hợp Đức Lý ban ơn đến năm hương dành cho vị chức sắc đại thiên phong Hiệp Thiên Đài. Ngài dạy: “Th. Ph., hiền hữu bị phạt năm nhang vì vô lễ trước mặt Lão hôm qua. Nghe à!”
Trong một dịp khác, Đức Lý đã nghiêm dạy một vị đạo hữu phạm vào giới tửu như sau:
“Trì, nghe dạy. Sơn phải lấy một ly rượu nhỏ, một ly rượu lớn đem lại đây!
“Đưa cho nó cầm, đội ngay lên trán thề rằng: Tôi tên là Lê Châu Trì, thề uống Tiên tửu một phen này với Lý Đại Tiên, từ đây không uống nữa, như ngày sau phạm giới Ngũ Lôi đả tử. Như quỷ giục, thì hiền hữu niệm câu này: Tửu nhập tâm di, hại tổn bình sanh chi đức; tánh thiên đạo diệt, dục tranh thế sự chi oan. Giải nghĩa: Rượu vào lòng đổi, hại hao đức bình sanh; tánh dời đạo hủy, dục tranh oan nghiệt thế tình.”
Đức Lý buộc các đạo hữu khi hầu đàn phải tuyệt đối giữ cho thanh tịnh. Ngài dạy: “Chư chúng sanh phải tịnh tâm cầu nguyện đặng Chí Tôn đến giáo đạo, khi bái lễ rồi phải ngồi kiết tường, chẳng đặng một tiếng khua động. Nếu thất lễ, Chí Tôn quở đến Lão, thì Lão đuổi hết chẳng cho người cầu đạo. Nghe à!”
Đức Lý còn nghiêm khắc đối với những người đến hầu đàn không phải mục đích cầu đạo: “Th. Tr. Nh., hiền hữu khá nói cùng kẻ đến đây chẳng tâm đạo, chỉ đến cầu gia đạo và cầu thuốc biết rằng: Đây vốn là đền thờ Ngọc Đế, chớ chẳng phải là nhà thương hay là tiệm bói. Nghe à!”
Qua ngày hôm sau, tình trạng này vẫn còn tiếp diễn, Đức Lý phán dạy quyết liệt hơn: “Th. Tr. Nh., hiền hữu khá nói lại mấy kẻ đến đây chẳng tầm đạo, chỉ quyết đến bói, ra khỏi đàn, để Lão đuổi bị nhục đừng trách, nam nữ cũng vậy.”
Khi nghe đến đây, chắc hẳn sẽ có lời thắc mắc là tình Sư đệ chẳng lẽ lại chỉ là “quỳ hương” hay “trục xuất” sao? Theo thường tình, hễ thầy có nghiêm khắc thì học trò rất nể sợ, chẳng dám khinh lờn, vì thế hết sức chú tâm vào công việc đèn sách. Lúc còn theo học thì có lúc ta thán, nhưng đến khi thành danh rồi thì lại biết ơn người thầy cũ. Trong trường hợp này, sự nghiêm khắc của Đức Giáo Tông cũng nhằm vào việc rèn môn đệ vào khuôn vàng thước ngọc, khi mà cơ đạo đang hồi phôi thai.
Đức Giáo Tông rất ưu tư đến từng tâm tư của các môn đệ: “Lão mang một cảm tình rất nặng cùng chư hiền hữu, hiền muội rồi đó. Lão là người đã đứng ngoài vòng thế sự hèn lâu, nên đôi phen bợ ngợ, phải tiềm tàng lượng trí mỗi người. Ôi nghĩ nên rất khó. (…) Ngán thay cho cái trách nhiệm nặng nề, vì trót đã hứa cùng Từ Bi ra tế độ, hễ trách nhiệm đàn anh, tuy nhiên lấy oai quyền khuyến nhủ trừng trị lấy em, mặc dầu chớ cũng nên hiểu tâm của mỗi đứa (…) Lão nhứt định đứng chung vai đâu cật cùng chư hiền hữu, chư hiền muội mà chia bớt khổ tâm.”
Khi nhận lãnh trách nhiệm Giáo Tông, Ngài phán dạy: “Lão hạ mình bỏ quyền Nhứt Trấn, lãnh việc Giáo Tông mà lập vị cho đàn em bước tới. Lão đã lắm phen thấy điều khó khăn mắc mỏ của phần ấy.”
Trong giai đoạn ban sơ này, qua những câu chuyện được minh họa bằng những dòng Thánh giáo, chúng ta cũng có thể hình dung được tâm trạng của các vị môn đệ “đàn anh” và cho chí đến những vị chức sắc đại thiên phong là rất mực kính sợ quyền pháp của Đức Giáo Tông. Có thể vì thế các môn đệ chỉ nhìn Đức Giáo Tông một cách phiến diện qua sự khiển trách hoặc hình phạt mà Ngài đã ban phát. Tuy nhiên, Ngài cũng đã rộng lượng ban thưởng rất trọng hậu. Chúng ta cũng hiểu rằng sự ban thưởng này khó có thể dùng trí phàm mà phán đoán, phần thưởng hữu vi có khi lại là hình phạt thiêng liêng và ngược lại, hình phạt hữu hình có khi lại là phần thưởng vô hình.
Đức Lý dạy: “Cơ thưởng phạt của thiên thơ thì lắm điều trái hẳn với trí người tưởng tượng, có nhiều khi thưởng hữu hình mà là hình phạt vô vi, mà cũng có khi lấy hình phạt hữu vi mà thưởng thiêng liêng công nghiệp. Vậy cái thưởng và cái phạt của Lão dùng điều đình Thánh giáo, nhiều khi chư hiền hữu chư hiền muội không thấu lý đặng. Nên khá dè chừng, đừng vội luận nhảm, bàn khùng mà mang tội [với] Thiêng Liêng, rất uổng nghe!”
Đạo sử đã ghi lại sự từ bi quảng đại thăng thưởng của Ngài một cách nhất loạt, được thể hiện qua Đạo Nghị Định thứ bảy ban hành ngày rằm tháng 7 năm Giáp Tuất (24-8-1934). Điều 1 quy định: “Cả chức sắc nam nữ Cửu Trùng Đài đã trọn hiến thân cho đạo buổi sơ khai đẳng đẳng đồng thăng nhứt cấp.” (Có năm trường hợp ngoại lệ.)
Ngoài ra, Đức Giáo Tông cũng đã từ bi ban thuốc cho môn đệ Ngài. Ngài dạy: “Thái Bính Thanh, hiền hữu tức cấp về đem Tiếng lên vì nó bị rầu mà sanh bịnh. Lên rồi Lão sẽ chỉ thuốc. Cười!”
Năm ngày sau, vị đạo hữu Tiếng vâng lịnh đến chầu, Ngài phán tiếp: “Bần Đạo biểu Thái Bính Thanh cứ lo thuốc cho Tiếng. Nhưng trước khi uống phải dâng lên Điện mà cầu Thầy, nghe à! Dầu Tiếng uống thuốc độc cũng mạnh. Cười!”
ĐẾN CƠ QUAN SAU CÙNG CỦA ĐẠI ĐẠO
Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý là một bộ máy sau cùng của Đại Đạo được Đức Chí Tôn thành lập nhằm mục tiêu quy nguyên thống nhất Đại Đạo, mà phương tiện để thực thi gồm có việc phổ thông giáo lý và phổ truyền chánh pháp Đại Đạo. Hai phương diện đó có thể vắn tắt là giáo lý và đạo pháp. Cao Đài không đem bánh vẽ, mà phải đem bánh thật đến cho nhân loại trong kỳ Hạ ngươn Mạt kiếp này.
Cơ Quan có may duyên rất to lớn và trọng hậu là được sự dìu dắt từng bước một của nhị vị Tôn Sư: Đức Giáo Tông Vô Vi Đại Đạo về phương diện hành sự và Đức Đông Phương Lão Tổ về mặt đạo pháp.
Đặc điểm của đạo Cao Đài là Đạo vô vi, Sư vô vi. Trong Tam Kỳ Phổ Độ, Đức Chí Tôn không cử các sứ giả đến trần gian mở đạo như trong Nhứt Kỳ và Nhị Kỳ Phổ Độ. Đức Chí Tôn trực tiếp nắm giữ chánh pháp; Ngài đến trần gian với sự phò tá của chư Phật, chư Tiên, chư Thánh, chư Thần, dùng huyền diệu cơ bút lập đạo và giáo đạo để độ dẫn chúng sanh trong thời Hạ nguơn Mạt kiếp. Cho nên, mới nói là Đạo vô vi, Sư vô vi. Vì thế, tình Sư đệ mà chúng ta đề cập ở đây chính là tình Sư đệ giữa hai cõi vô vi và hữu hình, giữa hai cõi sắc giới và vô sắc giới vậy.
Đức Giáo Tông đã bày tỏ tấm lòng tha thiết như sau: “Bần Đạo buồn thương cho những trang hướng đạo, cõi lòng còn thắc mắc. Thử kiểm điểm lại xem, rất đỗi các Đấng Thiêng Liêng từ cõi hư vô, bất sanh bất diệt, vì kiếp nạn của nhơn sanh mà xuống trần lập cơ khai đạo, cứu rỗi. Phương chi chư hiền đệ muội là những người đang sống còn trong cảnh hiện tại, đã được Thượng Đế phát ban điểm linh quang, có lý nào mãi nặng lo hình hài vật chất, ơn sanh thành dưỡng dục, nợ núi sông, gia đình thân thế, rồi thôi sao?Lại lãng quên sứ mạng của mình đến thế gian phải làm những gì? Những vật chất hữu hình hiện tại chư đệ muội đang hưởng, đã có sẵn bên kia bánh xe luân đợi chờ.
“Bần Đạo xem chư hiền đệ muội là những người em thân yêu mến luyến, nên đã từng cho chư Thần hộ trợ, vượt qua những lúc khó khăn, ngang nhiên hành đạo, có lý nào lại không lưu chút tình thân, nhớ lời dặn dò chỉ bảo, để được nhẹ nhàng tâm não, mát mẻ cõi lòng, mà bắt tay cùng Bần Đạo để lo xây dựng cơ tái tạo ở đời Thượng nguơn.”
Thật là cảm động, Đức Giáo Tông quá đỗi thương yêu chúng ta, không xem chúng ta như những người người học trò mê muội, mà là những “người em thân yêu mến luyến”. Hơn thế nữa, Ngài còn cho phép chúng ta được cộng sự với Ngài, được “bắt tay cùng” Ngài để xây dựng cõi đời Thượng nguơn Thánh đức. Còn điều gì là đại hạnh, đại phước hơn!
Chúng ta hiểu rằng phải là rất vinh dự và rất may duyên mới được Đức Giáo Tông chấp nhận vào hàng môn đệ, chấp nhận là đệ tử. Để việc ý thức được rõ ràng hơn, xin được trích dẫn một đoạn thánh giáo của Đức Huyền Pháp Đạo Nhơn Đỗ Thuần Hậu tự thuật về trường hợp của Ngài như sau: “Tệ Sĩ được đặc ân giáng đàn hôm nay là vì nhơn một dịp vừa rồi vào chầu tại Cung Thái Ất, thấy chư vị Tiền bối Đại Đạo quá vãng đang đánh cờ. Tệ Sĩ đến hỏi thăm và nhờ sự giới thiệu tiến dẫn của chư vị ấy. Tệ Sĩ đến yết kiến Ngài THÁI BẠCH KIM TINH và được Ngài thâu nhận vào hàng môn đệ để lập công quả trong Tam Kỳ Phổ Độ.” Nhân dịp này, Đức Huyền Pháp Đạo Nhơn cũng bày tỏ nỗi niềm nuối tiếc như sau: “Tiếc vì khi sinh thời Ta chưa ngộ Tam Kỳ Phổ Độ, nếu ngộ sớm đến giờ này không phải như hiện nay.”
Ngược dòng lịch sử, kể từ ngày mùng 1 tháng 4 năm Nhâm Dần (1962), Đức Chí Tôn đã chuyển hướng Cơ Quan “Cao Đài Thống Nhất” thành “Phổ Thông Giáo Lý Liên Giao Hành Đạo.” Trong giai đoạn khó khăn này, Đức Giáo Tông lãnh phần trách nhiệm Trưởng ban, còn hai Phó ban là quí đạo trưởng Huệ Lương và Chơn Tâm. Đến rằm tháng 10 năm Quý Mão (1963), Đức Giáo Tông mới giải thích lý do của sự tình nguyện này như sau: “Về phương diện thực thi nhiệm vụ phổ thông của chư hiền có mòi phát triển, nên Bần Đạo có thể giao lại chức Trưởng ban mà từ lâu Bần Đạo tạm giữ để chịu đựng những thử thách mà chư hiền đệ muội khó lòng đảm đương trong lúc khởi đầu.”
Tình Sư đệ của Đức Giáo Tông đối với chúng ta rất trầm mặc bao la, mà chỗ thâm sâu nhất là tự mỗi người trong chúng ta phải tự chứng nghiệm trong giờ phút công phu thiền định, cũng như trong những tình huống đạo sự được ứng hiện theo quy luật cảm ứng “hữu cầu tắc ứng, hữu thành tắc thông”. Sự trình bày ra bằng lời nói, bằng giấy mực cũng chỉ là sự khiên cưỡng mà thôi, bởi lẽ, Đức Giáo Tông không phải là người “thầy phàm trần” mà là “Sư vô vi”, thì tình Sư đệ đó mang đậm dấu ấn thiêng liêng; chỉ có tâm linh mới thấu hiểu, mới cảm nhận được mà thôi. Tuy nhiên, theo thiển ý, qua những câu chuyện nho nhỏ góp nhặt từ những lời Thánh huấn của Đức Giáo Tông trong những tình huống hoặc hoàn cảnh khác nhau cũng giúp chúng ta thấm thía được phần nào “tình Sư đệ” mà Đức Lý Đại Tiên Trưởng đã dành cho Tòa Thánh Tây Ninh buổi sơ khai nói chung, Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Đại Đạo nói riêng.
Khi chuẩn bị cho ngày Đại Hội Thường Niên ngày rằm tháng 2 năm Canh Tuất (1970), Ban Tổ Chức dự định tổ chức làm 3 ngày có chương trình cụ thể, sau đó trình lên Đức Giáo Tông vào đàn cơ tại Thiên Lý Đàn ngày 20 tháng 01 năm Canh Tuất. Có nhiều chi tiết mà khi chúng ta có dịp đọc lại Thánh giáo rất cảm động. Đức Giáo Tông thân tình hỏi Đạo Trưởng Hiệp Lý Minh Đạo Chơn Tâm: “Bần Đạo muốn hỏi việc rút ngắn chương trình thay vì ba ngày, chỉ còn một ngày, có khó lắm không hiền đệ?” Ở đây, chúng ta thấy rằng thay vì Đức Giáo Tông truyền ban Thánh ý, nhưng Ngài lại thân tình hỏi han như một người Anh Cả đối với đàn em cộng sự viên, chớ không dùng mệnh lệnh giữa người Thầy và người học trò.
Vào những năm đầu tiên chấp hành đạo sự Cơ Quan, chắc hẳn quí vị tiền bối hoặc tiền nhiệm không tránh khỏi sự lúng túng, ngỡ ngàng trước sứ mạng quá mới mẻ và hết sức trọng đại. Trong một đàn cơ tại Thiên Lý Đàn đầu năm Đinh Mùi (1967), Đức Giáo Tông minh họa guồng máy Cơ Quan và sự quan trọng của Thánh Dụ Quy Điều. Ngài đã thấu suốt tâm trạng quí vị lúc bấy giờ. Ngài dạy: “Bần Đạo chợt thấy ra cõi lòng một số hiền đệ cho Bần Đạo nói mắc. Không có vậy đâu, vì thương quá nên mới dùng hết lời lẽ thế tục mà ví dụ cho tỏ rõ.” Nói đến đây, Đức Tôn Sư mới trút cạn tấc lòng mình:
“Sứ mạng của Bần Đạo với sứ mạng của chư hiền đệ muội như nhau. Ai chấp mà chi. Nếu Bần Đạo chấp những sơ xuất nơi thế gian, thì trong giờ này Bần Đạo không đến đây, mà đã ở chốn non bồng nước nhược, cờ thánh rượu tiên, ngao du hải hồ bồng đảo, mây gió là thơ, sơn thủy là đàn, quần tiên là bạn. Còn nếu chư hiền đệ hiền muội mà chấp thì giờ này cũng không có ở đây, mang đạo phục mấy lớp trong bầu không khí oi bức, mà đã ở chốn hí viện có đủ máy điều hòa không khí hoặc ở bãi biển nghinh phong, hoặc ở chốn non cao tuyết lạnh, hoặc ở chốn tửu đình hải vị sơn hào. Cười!
Nếu nói đúng ra, sự hiện diện giữa Bần Đạo với chư đệ muội giờ này, nếu không phải là căn Tiên cốt Phật, nếu không phải là nguyên căn tá trần thế Thiên hành hóa, chắc chắn rằng không có cảnh tao ngộ, trút hết bầu tâm tư, cạn tiếng dặn dò, và im lìm lắng nghe cùng suy nghĩ.”
Trên con đường phụng thiên sự dân, từ bậc Thiên ân chấp trì quyền pháp cho chí đến người nhân viên nhỏ nhứt đều có những lúc chùn chân, tinh thần suy kém do nhiều nguyên nhân như khảo đảo nội tâm ngoại cảnh, sức khoẻ bệnh tật, v.v. Đức Giáo Tông đã kịp thời an ủi: “Bần Đạo đáng thương cho chư hiền trên bước đường hành đạo, nhưng nếu chư hiền đã nếm được bao nhiêu gian lao khổ cực trên bước đường đời, thì còn sá chi với nẻo đạo phải chịu đôi lần chua chát.”
Có một lần Đức Giáo Tông suốt thấu tâm tư với nhiều khúc chiết, đã hết lòng vỗ về một vị đạo trưởng đang giữ trọng trách Tham Lý Minh Đạo Cơ Quan: “Hiền đệ đã rút ruột con tằm để kéo bao nhiêu cuồn chỉ tơ dệt thành tấm vóc, Bần Đạo biết rõ hết. Nước mắt hiền đệ chảy lộn vào trong, chẳng khác nào những mối tâm tư Bần Đạo đã chảy tràn nơi Động Đình Hồ. Hiền đệ! Đành rằng hiền đệ không nao núng với mọi thử thách bên ngoài và khó nhọc bên trong, hiền đệ đừng tưởng không ai biết điều đó. Có nhiều người biết, trong số đó có Bần Đạo.”
Đức Giáo Tông đã xen kẽ trong những đàn cơ dạy về hành sự, Ngài đã dành thời gian để độ dẫn những nguyên căn. Trong một đàn cơ vào ngày rằm tháng 10 năm Bính Ngọ, sau khi Ngài điểm danh khích lệ một vị đạo tâm mới bước chân vào cửa đạo (mà hiện nay là vị đạo trưởng thuộc hàng Minh Đạo), Đức Giáo Tông chuẩn bị thăng vì có chiếu chỉ của Diêu Trì Bửu Điện đến. Ngay lúc ấy, một vị Minh Đạo bạch khá dài dòng về tính xác thực của một đoạn trích dẫn trong bài thuyết minh giáo lý của mình. Do thời gian không còn nữa, Đức Giáo Tông hứa sẽ giải đáp vào một dịp khác. Với lòng từ bi vô lượng vô biên, Ngài đã xin đình sứ giả Diêu Trì Cung để an ủi vỗ về một vị Minh Tra đang thọ bệnh. Ngày dạy: “Bần Đạo cũng xin phép đình một chút để sứ giả Diêu Trì Cung chờ đợi hầu an ủi hiền đệ H.P.
THI
Thân có đau rồi mới có sanh,
Sanh rồi tạo nghiệp bởi tài danh,
Phước trong một kiếp đời sương gió,
Kết quả ngày nay bệnh tật hành.

“Hiền đệ hãy kiên chí mà chịu đựng. Hễ một ngày qua gánh sự đau khổ là cởi bớt được một phần gánh nặng nghiệp chướng oan gia. Đến khi nào hiền đệ vô tri vô giác thì nghiệp chướng ấy hết, đừng mỏn đức tin mà lỡ dở bước đường.”
Trong khi chỉ trước đó có ba tháng vào ngày rằm tháng 7 Bính Ngọ (1966), Đức Giáo Tông đã ban ơn: “Minh Tra H.P.! Hiền đệ nghe dạy:
THI
Lăng xăng lẩy nhẩy lúc ngoài đời,
Vào đạo khen hiền chí chẳng lơi,
Biết chọn việc làm trong phận sự,
Dẫu rằng việc khó khó như chơi.


Chúng ta nhớ lại trong thời kỳ khai đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh, khi có những vị đến hầu đàn chỉ nhằm việc xin thuốc, chớ không phải để cầu đạo; Đức Giáo Tông không tiếp nhận và phán: “Đây vốn là đền thờ Ngọc Đế, chớ chẳng phải là nhà thương hay là tiệm bói. Nghe à!” Nhưng đối với hàng môn đệ, Đức Giáo Tông đã từ bi ban ơn cho thuốc chữa bệnh để có thể hành đạo tích cực hơn. Trong Cơ Quan, chúng ta cũng ghi nhận được trường hợp Đức Giáo Tông ban thuốc cho một vị tiền bối. Ngài dạy:
“C.M. hiền đệ nghe:

THI
Hữu kiếp hữu căn gặp đạo Trời,
Nhân duyên tiền định thế đành thôi,
Đây ban diệu dược cho hiền đệ,
Tạm dụng ân ban sẽ phục hồi.

Thường tình, cũng đôi khi xảy ra trường hợp người thầy ban ơn cho đệ tử một đặc ân gì đó ngoài sự mong đợi hoặc cầu xin; tuy nhiên cũng có trường hợp đệ tử cầu xin nhưng không được đáp ứng. Đối với Đức Giáo Tông thì việc cầu xin của chúng ta cũng có khi Ngài không chấp nhận. Nhưng làm sao biết rằng lời cầu xin đó chưa được hay là không được ban ơn? Vì có thể là chưa đến thời điểm nên sự ban ơn đó chưa được thể hiện? Tuy nhiên, có vài trường hợp Đức Giáo Tông ban ơn cho biết là những lời cầu xin đó không được đáp ứng vì trái với luật nhân quả hoặc luật công bình. Xin được kể ra hai câu chuyện nho nhỏ, có thể xem đó là bài học cho chúng ta:
Có một dịp vào ngày rằm tháng 10 năm Canh Tuất (1970), Đức Giáo Tông cho biết là quí vị đạo trưởng đã phát tâm cầu nguyện Ngài ban ơn cho nhân viên Cơ Quan luôn được khoẻ mạnh, không bệnh tật chi cả để đem hết tinh thần phụng sự cho đạo sự Cơ Quan. Đức Giáo Tông giải đáp thỉnh cầu đó như sau: “Chư hiền cầu xin Ơn Trên ban bố hồng ân cho nhân viên luôn luôn lành mạnh, không vấp vướng những đau bịnh làm trở ngại công việc hành đạo, điều này Bần Đạo khá khen tinh thần sốt sắng lo chung của chư hiền đệ, nhưng chư hiền đệ nên nghĩ lại. Con người mang một xác thân tứ đại này, dĩ nhiên phải ảnh hưởng theo hoàn cảnh thời tiết thuộc phạm vi hữu chất. Hơn nữa, trong thời kỳ Hạ nguơn Mạt kiếp này đầy rẫy những lằn điển ô trược nặng nề, dữ nhiều lành ít, cứ chen vào mọi con người mà phương hại, đó là cái nghiệp thân âu đành vậy!” Trong trường hợp này, Đức Giáo Tông không thể đáp ứng được điều khẩn cầu đó. Tuy nhiên, Ngài đã từ bi chỉ giáo phương cách để vượt qua. Ngài căn dặn:
THI
Cái thân tứ đại ở trong đời,
Ma bịnh triền miên đệ muội ơi!
Muốn có thuốc thần trừ chướng ngại,
Giữ gìn đều đặn lửa lò Trời.

Thêm một câu chuyện nữa, một vị tiền bối Cơ Quan có một điều cầu xin, mà chúng ta không rõ nội dung, Đức Giáo Tông trả lời: “Hiền đệ cầu xin Chí Tôn có một điều. Cười! Cười! Điều đó Bần Đạo chắc rằng giữa đây cũng có nhiều người muốn xin nhưng không dám. Nếu Bần Đạo cho thì phải cho đồng đều tất cả, mà nếu cho tất cả ắt phạm luật Thiên Điều. Hiền đệ hiện diện ở thế gian chắc phải thụ hưởng mọi tiện nghi ở thế gian. Muốn được vậy phải tự thực kỳ lực. Trên Thiên Đình đã có luật công bình cầm cân thưởng phạt, nhưng sự thưởng phạt đó không phải tự ý từ Thiên Đình đem đến cho người thế gian, mà do bởi nghiệp duyên vay trả của người thế gian mà có. Hiền đệ đã vay từ nhiều tiền kiếp, kiếp này rán làm, vừa làm vừa trả. Thiêng Liêng cảm thương hiền đệ, sẽ giúp hiền đệ bằng phương diện khác. Tất cả Cơ Quan sẽ an bài cho hiền đệ.”
Qua một vài câu chuyện vừa nêu, chúng ta cũng phần nào cảm nhận được cái tình Sư đệ mà Đức Giáo Tông đã dành cho những người tự nguyện hiến dâng cho sứ mạng của Cơ Quan sau cùng này. Ngài đã dành cho Cơ Quan những tình cảm rất đặc biệt mà ngôn ngữ không thể nào bộc bạch cho tận cùng được. Ngài đã xác nhận: “Đối với Bần Đạo hay các Đấng Thiêng Liêng lúc nào cũng từ bi, hỉ xả và giúp đỡ chở che, chẳng khi nào bỏ rơi một nhơn sanh, hà huống gì chư đệ muội đã dày công hành đạo.”
Chắc hẳn quí vị sẽ thắc mắc là không thấy nêu lên trường hợp nào mà Đức Giáo Tông đã áp dụng sự khiển trách tại Cơ Quan, như Ngài đã áp dụng trong giai đoạn từ 1926-1936. Theo thiển ý, sự khiển trách của Ngài có nhiều hình thức khác nhau; thí dụ như trong trường hợp nào thì Ngài ban ơn “quỳ hương” , và trong hoàn cảnh nào thì Ngài lại biểu lộ nỗi buồn (sự khiển trách gián tiếp). Xin được dẫn chứng một thí dụ trong một đàn cơ cuối tháng 7 năm Đinh Mùi, Ngài dạy:
“Bần Đạo nhắc lại phần hành sự: Rất buồn, nhưng buồn lại thương. Thương vì chư đệ muội đã lăn thân trong trần cấu, đến giờ này tâm lực tiêu hao, trở lại lãnh sứ mạng rất quan trọng nặng nề, làm sao khỏi lỗi lầm sơ thất. Nhưng buồn, buồn là đã trí thức mà không ý thức, nên lắm lúc tự khảo đảo lấy mình và khảo đảo luôn cùng bè bạn (…) Sở dĩ Bần Đạo dạy những lời hôm nay, là rất đỗi thương xót, nên tâm tình để chư đệ muội thức tỉnh mà đọc lại lời giáo huấn của Thiêng Liêng để làm một hướng đạo trung tâm cho phần hành sự, và sự tách rời những điều khảo đảo ngoại cảnh xâm lăng. Chư hiền đệ có buồn không? Buồn thì chẳng nên buồn mà phải nên sợ. Nếu trước mặt chư hiền đệ là con đường tốt đẹp, là cảnh cực lạc hiện ra, thì Bần Đạo không nói làm gì những lời hôm nay.

Trong đoạn thánh giáo ngắn này, chúng ta đếm được đến bảy chữ “buồn” mà Đức Giáo Tông đã thốt lên. Trong một dịp khác, Ngài đã đau xót mà nêu lên lời phán định, mà chắc rằng những lời này cũng chưa phôi pha trong tâm trí của những người nhận lãnh sứ mạng tại Cơ Quan: “Bần Đạo đã đến với chư đệ muội sau lệnh phê phán của Đức Chí Tôn và Hội Công Đồng Tam Giáo. Từng bước chân, từng việc làm, cho đến mỗi tâm tư suy diễn đều được Thần minh ứng trực. Thế chư đệ muội chưa cảm nhận được sao?
Có lẽ vì động tâm nên không nhận Thái Bạch Kim Tinh bằng Thần, mà chỉ trông thấy Thái Bạch ở tận Linh Tiêu. Giờ này gặp nhau bằng linh cơ diệu bút là điều trở ngại cho chư đệ muội. Một sứ mạng song hành nhưng chưa gặp gỡ và chưa hiểu biết nhau, nhưng thôi, việc đó sẽ tính sau
.”

Nhân dịp kỷ niệm ngày khánh đản của Đức Lý Đại Tiên Trưởng, Nhứt Trấn Oai Nghiêm kiêm Giáo Tông Vô Vi Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, chúng ta đã ôn lại những lời thánh huấn của Ngài ngay từ buổi sơ khai của Đại Đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh cho đến giai đoạn một cơ quan sau cùng của Đại Đạo, Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý. Trong thời gian đầu, Đức Giáo Tông đã thể hiện quyền pháp rất nghiêm minh; vì thế, hàng môn đệ Cao Đài nghe đến hồng danh của Ngài đều rất mực kính sợ. Với cương vị Giáo Tông, là Anh Cả, Ngài đã giáo hóa, nâng đỡ và bố điển cho hàng hàng lớp lớp môn đệ của Đức Chí Tôn xuyên suốt từ thời kỳ Khai Minh Đại Đạo năm Bính Dần (1926).
Đến chu kỳ của Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý, Đức Giáo Tông tiếp tục dìu dắt hướng dẫn, che chở, un đúc nhân viên Cơ Quan từng bước một. Ngài đã an ủi vỗ về, đã xem chúng ta như những “người em thân yêu mến luyến”. Thiết tưởng, còn đặc ân nào có thể nào so sánh được chăng?

Thật vô cùng diễm phúc nếu so sánh với thời xưa, người thầy chỉ truyền dạy cho đệ tử một câu, thậm chí một chữ để làm công án tu trì suốt cuột đời tu hành. Còn chúng ta ngày nay trong Tam Kỳ Phổ Độ được các Đấng Chơn Sư hết lòng dẫn dắt. Nếu chỉ tính riêng thánh giáo của Đức Giáo Tông dạy tại Huờn Cung Đàn, Cơ Quan và một số tịnh thất do Bộ phận thông công của Cơ Quan đảm trách được thống kê chưa đầy đủ cũng ngót nghét gần 1.000 trang. Còn việc sưu tập đầy đủ lời giáo huấn của Ngài trong kinh sách, nơi các hội thánh thì công trình này quả là rất đồ sộ.
Tình Sư đệ mà Đức Giáo Tông đã dành cho hàng môn đệ Cao Đài nói chung và Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Đại Đạo nói riêng, thiết tưởng không thể nào dùng văn tự hoặc lời nói mà diễn tả cho hết được. Cái tình Sư đệ thiêng liêng giữa hai cõi sắc không chỉ có thể lãnh hội đầy đủ bằng tâm linh tịnh khiết, vô dục vô niệm. Tình cảm thiêng liêng mà Đức Giáo Tông đã dành cho chúng ta sẽ do tự thâm sâu của mỗi người chứng ngộ được mà thôi. Để đền đáp lại ân đức sâu dày của Đức Giáo Tông, thiết tưởng mỗi người trong chúng ta cần nỗ lực hơn nữa trong việc tu thân luyện kỷ, trong việc hành đạo độ đời, và nhất là chu toàn các đạo sự được ban trao. Có như thế, chúng ta mới không hổ thẹn là đệ tử trung kiên của Ngài và ngày lễ kỷ niệm khánh đản của Đức Lý Đại Tiên Trưởng, Nhất Trấn Oai Nghiêm kiêm Giáo Tông Vô Vi Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ ngày hôm nay mới có ý nghĩa.
Xin mượn bài thi của Đức Giáo Tông để kết thúc bài viết này:
THI
Năm tháng ngày giờ thấm thoát qua,
Đêm khuya yên lặng khắp muôn nhà,
Thánh đường chăm chỉ nghe lời đạo,
Chỉ có chư hiền với có Ta.
Ta mến Ta thương mới chỉ truyền,
Giáo Tông tạm gác cái uy quyền,
Chỉ còn Sư đệ lời hơn thiệt,
Tâm đó lòng đây bởi vạn duyên.


Xin cầu nguyện Đức Giáo Tông ban ân lành cho toàn thể chúng ta được luôn tinh tấn và dõng mãnh trên bước đường tu thân hành đạo, ngược dòng về bến khởi nguyên. ◙

__________________________

Kỷ niệm Đức Giáo Tông Đại Đạo
(18-8 Quý Dậu-03-10-1993)

Đạt Trí

Sau 68 năm Đức Chí Tôn khai đạo, xây dựng Tòa thánh, thánh thất, thánh tịnh, tổ chức hành đạo, ban hành đạo luật để dìu dắt nhân sanh trên đường đạo và đường đời, Ơn Trên dạy: “Về giáo lý thì như muối bỏ biển, chưa thấm vào đâu.”
Thực vậy, về khách quan mà xét, giáo lý hiện nay trong toàn đạo còn mang nặng về hình thức cai trị đạo, nhân sanh còn mê say trong đường danh nẻo lợi vật chất, chưa thức tỉnh, chưa hiểu sâu về giáo lý. Muốn tận độ toàn nhân loại, với cương vị một vị Tiên Trưởng, Đức Giáo Tông Vô Vi với lòng bác ái từ bi, phải một lần nữa chèo thuyền Bát nhã mà cứu độ nhân sanh cho vẹn nghĩa tình cùng nhân thế nói chung, và từng bước dìu dắt Cơ Quan qua mỗi giai đoạn trong sứ mạng phổ thông giáo lý nói riêng.
Nghĩ mà thương một vị Tiên Trưởng đã sống ở Tiên cung 1300 năm nay lại phải lâm phàm lãnh sứ mạng, thay vì tiêu dao nơi miền Tiên cảnh, sáng cờ Tiên, chiều rượu Thánh, sớm dạo non thần, chiều du Bắc Hải. Bởi đức từ bi nên Ngài đã đến với nhân sanh:

Đời say Ta cũng muốn nên say,
Cho tạm phôi pha hết tháng ngày,
Bởi tánh từ bi không nỡ bỏ,
Vì lòng bác ái phải ra tay.
Chèo thuyền tế chúng qua bờ giác,
Mở đạo độ dân đến Phật đài,
Cho vẹn nghĩa tình cùng nhân thế,
Cho xong sứ mạng với nhân loài.

Ngày 02-9-1993 vừa qua, nhân ngày lễ Quốc Khánh, sở thể dục thể thao thành phố đã tổ chức cuộc đua thuyền bằng ghe ngo trên sông Sài Gòn, trên ghe có một vị cầm lái ngồi phía sau, hai bên là các tay bơi, mỗi người cầm một cây dầm (bơi), ngồi ngay ngắn trong tư thế sẵn sàng, có một vị chỉ huy đứng trên thuyền cầm cái còi thổi để các tay bơi đồng nghiệp dùng hết sức lực bơi thuyền theo lệnh một vị chỉ huy mong cho thuyền của mình về đến đích sớm nhứt để đạt phần thưởng (huy chương).
Qua hình ảnh đua thuyền ghe ngo, chúng ta thấy Đức Giáo Tông là người đứng chỉ huy, cầm còi, người cầm lái thuyền là vị Tổng Lý Minh Đạo, các tay bơi chèo là nhân viên cấp Vụ Trưởng, Vụ Phó cùng nhau ra sức bơi chèo cho thuyền về đến đích. Đừng tưởng rằng chỉ có vị thuyền trưởng chỉ huy, c̣òn nhân viên thì cứ ngồi nghỉ ngơi thong thả, vì Đức Giáo Tông cùng huynh tỷ đệ muội là người đã thọ lãnh sứ mạng và cùng chung trách nhiệm như nhau.
Đức Giáo Tông dạy: “Ví như Bần Đạo cũng có trách nhiệm đối với vạn linh sanh chúng, dầu không nơi nầy thì nơi khác, không dụng quyền pháp nầy phải dụng quyền pháp khác, vẫn phải tuần tự theo cơ vận hành của Đấng Chí Tôn mà độ đời cứu thế. Đã muôn ức kiếp lên xuống cõi trần, có thời kỳ nào mà không có Bần Đạo hay chư hiền đệ đâu. Chỉ vì nặng mang nhục thể, lấp khiếu linh quang, nên mình chưa hiểu được mình, thành thử hay ngẩn ngơ với trách nhiệm hay ngờ vực ở cuộc đời trong tương lai huyền ảo, rồi thỏn mỏn tháng lại ngày qua, dễ gì trăm tuổi đợi chờ, bước chưa bao nhiêu bước, làm chưa đủ trả cái nghiệp vay, thì định số đã tàn, còn lo làm sao kịp nữa.”
Trong khóa giáo sĩ, có giáo sinh hỏi:
- Nếu Cơ Quan không hoàn thành sứ mạng thì trách nhiệm thuộc về ai?
Tôi xin hỏi lại câu đó: - Theo em thì trách nhiệm thuộc về ai?
Em trả lời: - Trách nhiệm thuộc về hàng lãnh đạo, còn cấp dưới chỉ thừa hành.
Xin nói cho rõ, Cơ Quan không có chức sắc và tín đồ, Cơ Quan chỉ có chức vụ và nhân viên. Người nhân viên Cơ Quan là tín đồ, chức sắc các nơi đến tình nguyện phục vụ Đạo (Cơ Quan không làm lễ nhập môn thâu nhận tín hữu), thế nên nếu Cơ Quan không hoàn thành sứ mạng thì tất cả cùng chịu trách nhiệm.
Đức Giáo Tông dạy:
“Bần Đạo nói một lời quyết định là Cơ Quan sẽ là hoạt động chung cho tất cả các phần trong Đại Đạo. Nhân viên của Cơ Quan phải hãnh diện với trách nhiệm mình, phải chú trọng vào đường lối hành sự, tinh thần sáng suốt mới có thể làm được việc cho chính mình, cho mọi người. Bằng không, dầu là Tổng Lý Minh Đạo đi nữa cũng phải chịu trong luật lệ Thiên điều mà thôi.”
Đức Vô Cực Từ Tôn có dạy:

Hỡi các con ôi! Quá dại khờ,
Bao năm tu học vẫn ngây thơ,
Nếu con khinh mạng trong hành đạo,
Thì luật Thiên điều khó nỗi sơ.


Chẳng phải chỉ có Tổng Lý Minh Đạo và nhân viên chịu trách nhiệm, mà Đức Giáo Tông cũng cùng chung số phận:
“Trên cương vị Tam Trấn Oai Nghiêm, Bần Đạo có trách nhiệm trước Đấng Chí Tôn cùng Tòa Tam Giáo để dìu dắt nhơn sanh trên đường đạo pháp. Còn ở về cương vị Giáo Tông Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ là một sự đồng hành như chư hiền đệ muội có trách nhiệm trong cơ quan đạo. Thế nên sự thành bại, hưng vong, tiến thối, hư nên do hàng tín hữu gây ra, thì Bần Đạo cũng như chư hiền có trách vụ đều thọ lãnh công hoặc tội của hàng tín hữu trước Đấng Chí Tôn và Tòa Tam Giáo.”
Đức Giáo Tông với chúng ta, những hàng nguyên căn từ khi rời khỏi thượng giới, nay cùng chung sứ mạng.
Giáo hóa vì xưa có thiện căn,
Tông chi xuất xứ chốn Thiên đàng.

Hoặc:
Giáo hóa cho nên bậc sĩ hiền,
Tông chi gia phả Thánh, Thần, Tiên.

Chư huynh tỷ hãy thương Đức Giáo Tông nhiều hơn khi làm lễ tưởng niệm Ngài. Nếu Cơ Quan hoàn thành sứ mạng, chúng ta cũng hãnh diện biết bao trước nhân sanh, trước sứ mạng to tát trọng đại với sự lãnh đạo của một vị Tiên Trưởng nặng ḷòng bác ái gần xa: không khi nào Đức Giáo Tông phạt một nhân viên khi nhân viên đó phạm quyền pháp. Mặc dù Đức Giáo Tông được Đức Chí Tôn giao trọn quyền thưởng phạt. Khi có lỗi Ngài bảo hãy tự sám hối.
Đức Giáo Tông rất khoan dung, tha thứ, nhưng không vì thế mà phạm “Quyền Pháp”.
- Có khi nhân viên phạm tội thì Ngài bảo:
“Lỡ khi sơ xuất cũng làm ngơ cho.”
Đức Giáo Tông đã làm ngơ cho mà mình phải biết sợ. Đã là Giáo Tông Đại Đạo, xem xét cả nền Đại Đạo bao la rộng lớn đâu phải chỉ có Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý 120 nhân viên, lắm khi Ngài vì thương chúng ta nên không trừng phạt còn làm “ngơ” ngó chỗ khác, và nếu khi cần thiết lắm thì Ngài khen và thưởng cho một hương.
THI
Ta mến Ta thương mới chỉ truyền,
Giáo Tông tạm gác cái uy quyền,
Chỉ còn sư đệ lời hơn thiệt,
Tâm đó, lòng đây bởi vạn duyên.

Đức Giáo Tông đã vì tình thương mà dìu dắt chư môn đệ của Ngài. Ngài gác chức vụ lại, chỉ có tình sư đệ hơn thiệt tâm tình giữa hai cõi sắc không vì đã có vạn duyên nguyên căn từ muôn kiếp, từ tông chi gia phả lâu đời.
Thương nhau ai luận tục và tiên,
Chỉ dốc dìu nhau giải não phiền,
Tâm thánh tập rèn lo giúp thế,
Vẹn tròn sẽ trở lại cung thiên.

Kết luận
Với Đức Giáo Tông Đại Đạo, Ngài chỉ có tình thương cảm hóa nhân sanh:
- “Rộng lòng bác ái gần xa,. . .”
- “Bởi tánh từ bi không nỡ bỏ,. . .”
- “Chèo thuyền tế chúng qua bờ giác…”◙

_______________________



Ban Biên Tập sưu tầm
THỦY HỎA KÝ TẾ / Ban Biên Tập sưu tầm



TÍNH KHÔNG / Ban Biên Tập sưu tầm

Phật Tiên buổi chót đến hồng trần,
Kêu gọi người đời rõ lý chân,
Chớ để linh tâm vùi tục lụy,
Nên ngừa cám dỗ của tà thần.

Đức Quan Âm Bồ Tát, Liên Hoa Cửu Cung, 03-01 Ất Tỵ, 04-02-1965

Chúng tôi rất hoan nghênh và sẵn sàng tiếp nhận các ý kiến đóng góp của bạn để phát triển Nhịp Cầu Giáo Lý ngày một tốt hơn.


Hãy gửi góp ý của bạn tại đây