Thống Kê Newsletter
Lần đầu đến với Nhịp Cầu Giáo Lý?

Những liên kết dưới đây có thể hữu ích với bạn.

 
19/05/2006
Thuần Chơn

Bài viết được cập nhật lần cuối vào ngày 30/12/2009

Chơn nhơn


I. Thế nào là bực Chơn Nhơn?

Hàng Chơn Nhơn theo Lão Trang cũng là bực chí nhân quân tử theo Nho giáo.

Môn sanh Cao Đài (phái Chiếu Minh Tam Thanh Vô Vi) có nhiều vị tu đắc quả Chơn Nhơn, chúng ta có thể tìm đọc quyển "Đại Thừa Chơn Giáo", bản in song ngữ Pháp Việt năm 1950, mục ấn chứng thiêng liêng để hiểu rõ hơn kết quả của công phu tu luyện của hàng chơn tu.

Tạm giải nghĩa hai chữ Chơn Nhơn. Chơn là thật, chơn thiệt; nghịch nghĩa với giả là giả mạo, dối trá (không đúng chánh pháp chơn truyền). Chữ Chơn được Đức Linh Bửu Thiên Tôn giải rộng ra trong quyển Đại Thừa Chơn Giáo là chơn lý của Trời ban ra hay cũng có nghĩa là chơn truyền, truyền cái cơ Đạo bằng cách chơn thật rõ ràng, không ẩn núp cao xa sâu kín. Nhưng ở đây Chơn Nhơn có nghĩa về con người, con người thiệt, con người có nguồn gốc Thiên chân sáng ngời xuất phát từ Đại Linh Quang của Thượng Đế, là nguyên nhơn chớ không phải hóa nhơn tiến hóa từ thảo mộc, thú cầm lên làm người. Chơn Nhơn theo Lão Trang là bực chí chơn, chí thánh, bực xuất chúng hơn hẳn con người thường phàm tục (phàm nhơn).

Có thể gọi tóm tắt Chơn Nhơn là Tiên tử, còn phàm nhơn là tục tử.

Chơn Nhơn là danh từ mà Trang Tử dùng để cụ thể hóa người đã đạt được Đạo và sống theo Đạo tức là người đã giải thoát (Trang Tử tinh hoa, Nguyễn Duy Cần).

Thế nào là bực Chơn Nhơn?

Là những hạng người đã thực hiện được hạnh tứ vô của Tiên gia, là bốn cái Vô (không): Vô kỷ, vô công, vô danh và vô vi.

1.Vô kỷ là vô ngã, là diệt được cái bản ngã, cái tư ngã, cái phàm ngã của mình, không còn thấy có ta có người, không còn phân biệt ngã nhơn nữa, vì họ đã huyền đồng cùng tạo vật, họ đã dứt được tư tâm, tư dục. Phàm tâm của họ đã chết nên Thánh tâm của họ phát hiện. Ví dụ như khi họ đi chẩn tế cho người nạn nhơn thiên tai bão lụt, người bệnh tật, họ không để lộ tông tích họ là ai hay địa vị xã hội của họ, cốt yếu giải khổ cho tha nhơn vì lòng trắc ẩn thương người. Bực Chơn Nhơn giúp đời không cho ai biết tông tích, danh tánh mình.

2.Vô công nghĩa là không kể công, không kể ơn, không khoa trương quảng cáo việc làm nhơn đạo của mình, không muốn ai khen thưởng, chỉ lo làm xong nhiệm vụ rồi rút êm trong âm thầm, không thụ hưởng, không nhận ân huệ nào.

3.Vô danh: Hễ đã vô kỷ, không còn nghĩ đến cái ta nữa thì đâu còn thích ham danh vọng, không muốn lưu lại tên tuổi dấu vết cho ai biết mình nữa.

4.Vô vi: là không phải không làm, mà làm những điều ích lợi cho đời một cách âm thầm, không tiếng tăm, không lộ liễu, không phô trương ầm ĩ, không để ai biết mình chủ sử hành động, như đoàn chim bay ngang qua mặt nước hồ thu gợn sóng rồi im lặng như tờ; như đoàn người đi qua một tấm kiếng to mà không để lại bóng dáng hình hài. Kìa xem mặt trời chiếu sáng ban ngày, mặt trăng soi rọi ban đêm, bốn mùa tám tiết đều được điều hòa, nào ai thấy được người chủ sử.

Đó là "vô vi nhi vô bất vi", tức là không làm, nhưng không phải không làm gì hết. Bực Chơn Nhơn không để tâm vọng động xao xuyến trước những biến cố bất thường. Những điều hưng vong thành bại, nên hư trong đời không làm họ lay chuyển tâm tư, kể cả việc sống chết.

Thiên Đại Tôn Sư Nam Hoa Kinh, Trang Tử có viết: Vũ trụ cho ta cái hình hài, cho ta sống để ta đau khổ, cho ta già để ta an nhàn, cho ta chết để ta nghỉ ngơi. Vậy coi sống là cái phúc thì cũng phải coi chết là cái phúc .

II. Điểm thứ hai : Bực Chơn Nhơn điềm đạm, thản nhiên, chí nhơn vô kỷ, thần nhân vô công, thánh nhơn vô danh là ba cái hạnh kiểm cốt yếu nhứt của hàng Chơn Nhơn.

Sự điềm đạm của họ chí cực, mất không tiếc, được không mừng, gặp nạn lớn mà không biết kinh sợ, đó là cái Dũng của bực Thánh nhơn vì biết cùng thông là mạng, là thời.

Những biến cố bất thường, nên hư đắc thất trong đời không bao giờ làm động đến tâm họ được. Cho đến vấn đề sống chết cũng không động lòng họ được nữa. Trong Thiên Đại Tôn Sư, Trang Tử viết: "Bực Chơn Nhơn ngày xưa không ưa sống, không ghét chết, lúc ra không hăm hở, lúc vào không do dự, thản nhiên mà đi, không quên lúc bắt đầu, không cầu lúc sau chót. Nhận lãnh thì vui với đó, mà quên đi khi phải trở về. Nhờ được thế mà lòng họ luôn luôn vững vàng, cử chỉ điềm đạm, gương mặt luôn luôn bình thản ."

Bực Chơn Nhơn ngày xưa mất không tiếc, được không mừng, lên cao không biết sợ, xuống nước không sợ chìm, vào lửa không sợ cháy; đó là vì cái biết của họ đã đạt được Đạo rồi. Sự điềm đạm của họ đến chí cực rồi không còn để cho bất cứ ngoại vật nào động đến lòng mình được.

III. Điểm Thứ Ba :Bực Chơn Nhơn sống thảnh thơi tự tại (Trang Tử Thiên Tiêu dao du) muốn sống trọn đời phải biết phép dưỡng sinh mà phép dưỡng sinh là thuận lẽ Trời (thuận Thiên).

"Chơn Nhơn thời cổ có vẻ uy nghi mà không kiêu căng, khiêm tốn mà độc lập, nhân cách khác người mà không cố chấp, chí khí hơn người mà lòng thì hư tĩnh, không thích khoe khoang, lâng lâng thanh thoát, hân hoan; cử chỉ, nét mặt hiền hòa nên ai cũng muốn được thân cận, khoan dung đại độ nên ai cũng muốn qui phục, thích sống tự do nên không ai áp chế được; trầm mặc như đứng sau một cửa đóng; vô tâm với thế sự như một người quên hết ngôn ngữ, chỉ hành động xử sự khi bất đắc dĩ, coi đạo đức là thuận Thiên tính nên dễ dàng đạt mục đích..."

Hạng Chơn Nhơn còn thích sống gần thiên nhiên, ăn những thức ăn thiên nhiên, không làm trái thiên nhiên, sống thuận theo thiên nhiên, không cách vật cầu kỳ, sống an nhàn tự tại, thung dung tiêu sái, không bận bã danh lợi thế sự nhơn tình, không để cho buồn rầu lo nghĩ, giận ghét xâm chiếm tâm hồn làm thương tổn tánh tình, như vậy mới thảnh thơi tiêu diêu được. Họ sống rất tự nhiên, hành động hết sức thành thật, không chút gì giả dối. Không cầu danh nên cũng không cầu thân bất cứ dưới hình thức nào. Bởi vậy họ không bao giờ tìm cách mua chuộc thiện cảm của ai cả. Họ cũng không thích khen sợ chê, cho nên rất xem thường dư luận người đời. Không có một quyền uy nào bắt họ phải sống không được thành thật với lòng mình. Và vì vậy, họ không có mặc cảm gì hết. Người Chơn Nhơn giải thoát là người đã nhận chân được cái sống thật của mình, cái sống đồng với Trời đất vô thủy vô chung, tự sinh, tự hóa… cho nên không có cái dạ đèo bòng tham muốn những gì ngoài số phận của mình nữa. Và nhờ vậy mà tuyệt được lòng tham dục. Bởi vậy không tự tôn mà cũng chẳng tự ti, cũng không bao giờ có mặc cảm tội lỗi gì cả, vì tâm hồn họ đã thoát khỏi những gọng kềm của luân lý, xã hội, tôn giáo, học thuyết, một cách sáng suốt. Không riêng gì môn đồ Lão Trang, ngay cả môn đồ Khổng Mạnh thời sau cũng tâm đắc.

Trong Cao Đài giáo, các Đấng thường giáng cơ dạy thế nào là bực chơn tu cũng tựa như Lão Trang vì chơn lý là sự thật của muôn đời, phi thời gian và phi không gian, sau trước đều không dời đổi cải canh vì đó là sự chân thật vĩnh cửu siêu nhiên.

Như thế hàng Chơn Nhơn này của Lão Trang không khác hàng Quân tử hay Thánh nhân của Khổng giáo. Đức Cao Đài Thượng Đế trong quyển Đại Thừa Chơn Giáo cũng dạy môn sanh thực hành cái Đạo của người quân tử mà đừng theo đứa tiểu nhơn (trang 150 – bản in 1936) một cách đầy đủ rõ ràng, người tu Đại Đạo nếu thực hành nghiêm chỉnh thì không lo gì không đắc Đạo, được về hội nhập cùng Thầy Thượng Đế. Đức Chí Tôn dạy:

"Trong đời, nhơn loại thường chia ra hai hạng: Quân tử với tiểu nhơn. Vậy các con nên theo gương quân tử mà chẳng nên học thói tiểu nhơn.

Quân tử là gì? Tiểu nhơn là gì?

Quân tử là một người đức tài xuất chúng, phẩm hạnh nhân cách hoàn toàn, tánh tình cao thượng. Người quân tử bao giờ cũng ung dung thư thái, ưa làm sự phải điều hay, thuận thiên lý lưu hành, đem chơn đạo mà khuyên đời tùng lương cải ác. Tấm lòng bao giờ cũng quảng đại, vô vi thanh tịnh, không phóng túng bôn chôn mà để lòng dục khiến sai uốn bẻ, đến phải bước lầm vào nẻo quấy. Mỗi việc đều xét suy đáo để, tính trước lo xa, thương người ích chúng, ham nghĩa ưa nhân, chuộng trung mến chánh. Bao giờ cũng vẫn tùy thời quyền biến mà giữ cho được hai chữ "Trung dung" chớ không thái quá, không bất cập. Dầu cho cảnh ngộ nào thì tâm chí cũng cứ an vui, không để thất tình loạn động, vì người quân tử là thực vô cầu bảo, cư bất cầu an, kia mà !!

Cái đức của người quân tử thường như nước vậy. Nghĩa là châu lưu khắp chảy tứ phương, gặp tròn, gặp méo, gặp dài, gặp vuông, nước cũng chiều theo được hết. Lại nước cứ từ cao chảy xuôi xuống thấp, nên người quân tử luống chịu hạ mình cho vừa lòng tất cả nhơn sanh. Tuy nước cứ tìm chỗ thấp, cứ chiều theo khuôn, cứ mềm với chúng, mà đến chừng ai muốn cho nó tiêu mòn sứt mẻ là chẳng làm sao hề hấn đến được lấy chút mảy may gì nó bao giờ! Người quân tử theo đời mà chẳng nhiễm đời, chiều người mà chẳng bợ người, tùy tục mà không đắm tục, cứ giữ tánh tình thanh bạch, tâm chí cao siêu, dẫu ai dầm cũng chẳng phai, ai giũa cũng chẳng mòn, nên bả lợi danh, mồi chung đỉnh có bao giờ trêu nhử được!

Còn đứa tiểu nhơn lại bỏ nghĩa theo lợi, lấy vạy cầu danh, tâm tà tánh độc, nết kiêu chí hèn. Nói tắt một lời là mỗi mỗi đều trái hẳn với người quân tử như trắng với đen, như Trời với vực.

Tuy nhiên, người quân tử càng trốn cái danh mà danh càng rạng tỏ, càng chiều với thế, mà thế vẫn tôn sùng, còn đứa tiểu nhơn lại càng chuộng cái danh mà danh càng nhơ nhớp, càng kiêu với thế mà thế vẫn thị khinh."

Kết luận

Người đắc Đạo tại cõi trần này là con người đã giác ngộ, đã giải thoát khỏi áp lực, ảnh hưởng của vật chất chi phối như danh, lợi, sắc, tài, địa vị quyền thế, sự nghiệp, dầu cho danh đạo cũng vậy. Như các Ngài Vạn Hạnh Thiền Sư, Phù Vân Quốc Sư ở Việt Nam, khi làm xong nhiệm vụ cứu dân cứu nước, họ trở lại với sằn dã để sống một đời sống theo thiên nhiên với hài cỏ gậy tre, sống tiêu sái, thanh đạm ung dung, không gì ràng buộc cả. Đó là cái thú duy nhứt của Tiên gia tại trần.

Trước khi các Ngài đắc Đạo, các Ngài cũng phải chịu khổ công trải qua một thời gian dài tu học, luyện kỷ vô vàn khó khăn, luyện cho được hạnh tứ vô để trở nên người đạo đức điềm đạm, không ưa sống, không ghét chết, lúc ra đi lìa bến khởi nguyên không hăm hở, lúc trở về (phản bổn huờn nguyên) không do dự, vẫn thản nhiên thanh thoát.

Bực Chơn Nhơn noi theo nếp sống Đạo tự nhiên thanh bạch, cư trần mà bất nhiễm trần, không để cho danh lợi, quyền chức, tài sắc chế ngự, sống tự do, an nhàn tự toại, ung dung tiêu sái, thoát vòng thị phi thế sự nhơn tình vì họ chế ngự được thất tình lục dục.

Thi bài:

Sống là được trong thanh chơn đạo,
Sống mà không điên đảo biến thiên;
Như như mặc mặc kiền thiền,
Thung dung chuyên nhứt là Tiên trên đời.
Tuy thân huyễn còn nơi trần tục,
Mà tâm thần chẳng chút nhiễm ô;
Bại thành đắc thất hữu vô,
Sang hèn thanh trược tinh, thô, dữ, lành.
Đó khử trược lưu thanh là thế,
Tâm bình rồi tự thể tự do;
Non thần nước trí tha hồ,
Tam thiên thế giới ra vô mặc tình.
Nói sao được huyền linh máy nhiệm,
Phải tự tu tự kiểm cho tinh;
Đó đường thoát hóa siêu sinh,
Có thân như chẳng, có hình như không.
(Bảo Pháp Chơn Quân Huỳnh Chơn)

Vậy ai muốn thành Tiên, thành Chơn Nhơn ở cõi trần này hãy thực hành đúng theo những điều kiện của Trang Tử kể trên. Người tu hành nào thực hành được đời sống Chơn Nhơn của Lão Trang tức là đã tu chứng tại tiền rồi. Phật Tiên cũng thế thôi, nào có khác, không phải đợi đến lúc về miền Bồng Lai Tiên Cảnh.
 
Thuần Chơn
Diệt trừ niệm lự / Thuần Chơn

Tánh Mạng Song Tu / Thuần Chơn

Nhị Xác Thân / Thuần Chơn

Chơn nhơn / Thuần Chơn

Thiên Địa Chi Tâm / Thuần Chơn

Đạt đạo nhờ tâm chẳng vọng tâm,
Muôn đường ngàn nẻo cũng do tâm.
Hỡi ai giữ được tâm chuyên nhứt,
Sẽ dứt phàm tâm lộ thánh tâm.

Đức Bảo Pháp Chơn Quân, CQPTGL, 13-5 Tân Dậu

Chúng tôi rất hoan nghênh và sẵn sàng tiếp nhận các ý kiến đóng góp của bạn để phát triển Nhịp Cầu Giáo Lý ngày một tốt hơn.


Hãy gửi góp ý của bạn tại đây