Những liên kết dưới đây có thể hữu ích với bạn.
-
Hội ý bài kệ “Nhãn thị chủ tâm” của Đức Chí Tôn, thì Chánh pháp này cũng đặt tại Tâm ...
-
Nhân ngày lễ kỷ niệm tái thiết Vĩnh Nguyên Tự Rằm tháng 3 Âm lịch (01-5-2007)NCGL trân trọng giới thiệu ...
-
I have a dream that one day on the red hills of Georgia, the sons of former slaves and the ...
-
Đề tài : Đề cao tình thương và lòng mến đạo Thánh Thất Bình Hòa, Tuất thời rằm tháng 9 Đinh ...
-
THANH NIÊN và THIÊN CƠ GIÁO ĐẠO Ngày kỷ niệm Khai Tịch Đạo năm Mậu Tuất 1958, Đức Lý Giáo Tông ...
-
Công phu /
Đức Đông Phương Lão Tổ dạy: Công phu là để tâm an định, Nên đạo nên người chốn thế gian. (CQPTGLĐĐ, 04-6 Tân ...
-
Ảnh : GS Nguyễn Thuyết Phong (giữa) chơi đàn kìm bên cạnh cô Ngọc Thủy đàn tranh, David Badagnani đàn ...
-
Năm 1967, cách nay 40 năm, Đức Lý Thái Bạch là Đấng Thiêng Liêng đầu tiên đã ban ân hướng ...
-
Xin trích một đoạn Luật Hiệp Thiên Đài trong Ngọc Đế Chơn Truyền-1935: “Nói tóm tắt là, cơ bút để cầu ...
-
Liên Hiệp Quốc, viết tắt là LHQ (còn gọi là Liên Hợp Quốc), là một tổ chức quốc tế bao ...
-
Đức Giáo Tông Vô Vi Đại Đạo dạy tại Cơ Quan PTGLĐĐ vào ngày CQPTGL vào Giao Thừa Năm Đinh ...
-
Cách đây hơn 80 năm, khi Ðức Thượng Ðế hạ ngọn linh cơ lần đầu tiên tại Việt Nam, tức ...
Thiện Chí sưu tầm & Biên soạn
Bài viết được cập nhật lần cuối vào ngày 23/03/2013
Bản Thể Đại Đồng Dân Tộc
Cách đây 30 năm, vào một ngày đầu Xuân, Đức Thái Thượng Đạo Tổ có giáng cơ dạy đạo như sau:
"THÁI THƯỢNG ĐẠO TỔ hỉ hỉ chư môn sanh nam nữ.
THI
"Vạn vật nhờ xuân để nở sanh,
Xuân do lý đạo mới lưu hành,
Vui nguồn xuân đạo xuân vô tận,
Dưới bóng HUYỀN KHUNG hưởng trọn lành.
"Tôn Sư đến trần gian giờ nầy để ban ơn cho chư môn sanh nam nữ trong tiết xuân khai thái. […]
"Này chư môn sanh ! giữa thời nhiễu nhương ly loạn, cuộc phân hóa trầm trọng của nhơn sanh đã thành trường sát kiếp. Chư môn sanh là những con người biết giác ngộ trước cảnh đen tối mờ mịt của trần gian, mới được THƯỢNG ĐẾ ban trao sứ mạng tam kỳ phổ độ, một sứ mạng chung cho dân tộc được chọn.
Nếu toàn thể những người được đứng trong khuôn viên tôn giáo đạo đức, đều đồng lòng hòa hợp lại trong tinh thần vô cố, vô chấp, vô ngã, vô công, vô danh thì có lo chi không giải được sự cộng nghiệp của chúng sanh, đem lại thanh bình an lạc chung cho thế giới nhân loại. . . [. . .]
"Vạn vật sinh tồn trong lý đạo. Những phương pháp, phương châm, bí quyết để con người được biết rõ chính mình và biết sống trong lý đạo để bảo trì nhân bản trên xã hội nhân loại này đều tóm vào một ý nghĩa của mùa xuân, bởi xuân là mùa lập lại qua cuộc sanh trưởng thâu tàng, biết hòa dịu để lưu hành trưởng dưỡng.
Người biết đạo mới biết vui xuân. Biết vui xuân là biết
hòa mình cùng đại thể, cùng vạn vật."
Qua thánh giáo vừa rồi của Đức Thái Thượng Đạo Tổ,
chúng ta thấy, nhân tiết Xuân về, Ngài dùng lý đạo
của mùa Xuân để nhắc cho những người học đạo hành
đạo mà cũng là nhắc chung cho mọi người:
_ Một sứ mạng chung của dân tộc được chọn,
_ Bí quyết để biết rõ chính mình và biết sống
trong lý đạo để bảo trì nhân bản trên xã hội nhân loại này,
_ Biết hòa mình cùng đại thể.
Vậy, chúng ta là mỗi đứa con của dân tộc VN,
chúng ta đã và đang được thừa hưởng những gì để
có ý thức, có niềm tin rằng dân tộc ta là dân tộc được
chọn.Và nhất là làm sao hòa mình cùng đại thể để bảo
trì nhân bản ?
Câu trả lời đã được Đức Giáo Tông Vô Vi Đại Đạo
gợi mở: "Muốn đại đồng cùng thiên hạ, hãy đại đồng
giữa dân tộc chư hiền trước đã !"
Đó là lý do hôm nay nhân ngày khánh đản của Đức
Thái Thượng Đạo Tổ, tôi xin được vinh hạnh trình bày
cùng quí vị đề tài " Bản thể đại đồng dân tộc"
* * *
Mỗi dân tộc trên thế giới, từ thời dựng nước, trải qua lịch sử thăng trầm giữ nước, xây dựng đời sống nhân dân no ấm phồn vinh, phát huy văn hóa dân tộc, phát triển văn minh là một chuỗi dài nỗ lực và hy sinh của nhiều thế hệ.
Mỗi dân tộc đều tự hào về di sản của ông cha và tiếp tục giữ gìn phát huy truyền thống tiền nhân để lại hầu bảo vệ xây dựng tổ quốc trường tồn, tiến bộ không ngừng.
Chính tình yêu nước thiêng liêng, ý chí quật cường, trí tuệ sáng tạo, lòng biết ơn tổ tiên, cộng với dân tộc tính, với bản sắc văn hóa đã đúc kết nên bản chất tiềm tàng trong mỗi người dân. . . Rồi truyền thụ từ thế hệ này sang thế hệ khác, thấm nhập giá trị nhân bản phổ quát đại đồng trong dân tộc và có khả năng tiến hóa hòa hợp với các dân tộc khác trên hế giới.
Với những đặc tính trên, có thể gọi "bản chất" ấy là BẢN THỂ ĐẠI ĐỐNG DÂN TỘC.
Trước khi tìm hiểu Bản Thể Đại Đồng Dân Tộc, cần định nghĩa hai chữ "bản thể", một danh từ triết học có ý nghĩa rất đặc biệt.
1.Theo các tự điển triết hoc Việt Nam và Anh ngữ thì Bản thể là thực tại tự thân ( reality in itself ), chỉ có thể tiếp cận bằng trí thức trực giác, không thể biết được bằng cảm quan.
2. Đại Động Chân Kinh viết: "Căn bản vốn tại Trung tâm... Suy cho cùng Bản thể vốn tại Trung tâm.Các hiện tượng bên ngoài đều bắt nguồn từ bên trong. Các ứng dụng hiển lộ ra bên ngoài cũng đều từ bên trong sinh xuất..." (Căn bản nguyên do Trung... Cứu kỳ căn bản thực do ư Trung. Hiển lộ ngoại giả, bản hồ nội. Chiêu hồ Dụng giả, do hồ Thể dã) ĐĐCK, q. hạ, tr. 11b. (Dẫn theo BS. Nguyễn Văn Thọ, Tinh Hoa Các Đạo Giáo, tr. 282.)
3. Thánh giáo Cao Đài viết: "Đạo là bản thể vũ trụ, tối cao tối thượng, mà Đạo cũng là nguồn sống của vạn vật chi linh. Do đó mà những bậc thánh triết hiền nhân quân tử mới dám xả thân cầu Đạo, đem sự tín ngưỡng, đem hành động nghĩa nhân đạo đức gây được uy tín trong nhân gian để đem họ hiệp về con đường Đạo là nguồn sống."
5. Đạo Học Chỉ Nam viết: "Nguồn gốc vũ trụ, người vật, đông tây, nay và xưa, ai cũng công nhận trong kiền khôn thế giới, có một Bản nguyên chủ tể làm trung tâm điều lý. Người vật từ đó mà ra, vạn đức bởi đó mà vào..."
Cuối cùng, định nghĩa đạo học đã bổ sung định nghĩa triết học để cho chúng ta khái niệm tổng hợp sau:
Nếu chúng ta tư duy về vũ trụ thì vũ trụ bao hàm Bản thể và hiện tượng. Bản thể của vũ trụ là Cái-tự-nó hay thực tại tự thân, là nguyên thủy của vạn vật thuộc về hiện tượng. Vạn vật biến đổi không ngừng, nhưng luôn luôn còn tương quan với Bản thể. Bản thể bất biến nhưng vẫn luôn luôn tác động vào vạn vật.
Nếu Bản thể là Nguồn gốc, là Tuyệt đối thể bất biến của vạn vật thì Bản thể phải là thưc tại toàn chân, toàn thiện, toàn mỹ. Đồng thời Bản thể cũng là cứu cánh tiến hóa của vạn vật. Nên tuy muôn loài vạn vật có vô số hình thức khác nhau nhưng cùng có chung một Bản thể. Chính Bản thể làm cho vạn vật có tính đại đồng tiềm ẩn.
Xét về mặt tiên thiên thì Bản thể của vũ trụ vạn vật là Vô cực – Thái cực – Đại linh quang. Con người thọ bẩm Tiểu linh quang từ Đại linh quang.
Xét về mặt hậu thiên thì nhân loại cùng có một Bản thể đại đồng, đó là Nhân bản, là bản vị đánh giá nấc thang tiến hóa làm người không phân biệt màu da sắc tóc.
Xét trong phạm vi một dân tộc, thì Bản thể đại đồng dân tộc còn được un đúc thêm vào Nhân bản những bản chất đặc thù của dân tộc đó, mà bất cứ người dân nào mang huyết thống giống nòi đều thừa hưởng Bản thể đại đồng ấy.
Vậy Bản thể đại đồng dân tộc của dân tộc Việt Nam là gì?
Đối với dân tộc Việt Nam, có thể nói các cơ cấu:
*TÂM THỨC GIỐNG NÒI;
*TÂM THỨC LƯỠNG HỢP ÂM DƯƠNG
*TÂM THỨC THIÊNG LIÊNG và VŨ TRỤ;
*ĐỊA LINH TỔ QUỐC;
*VĂN HÓA DUNG HỢP;
*LỊCH SỬ NƯỚC NHÀ
Tất cả kết thành Bản thể đại đồng dân tộc Việt Nam.
I. TÂM THỨC NÒI GIỐNG RỒNG TIÊN
Đại Việt Sử Ký Toàn Thư (phần ngoại kỷ) của Ngô Sĩ Liên (thời nhà Lê, thế kỷ 15), viết về nguồn gốc dân tộc Việt Nam (dã sử) như sau:
Kỷ Hồng Bàng thị:
Kinh Dương Vương:
Kinh Dương Vương tên húy là Lộc Tục, con cháu Thần Nông thị. [...]
Thần Nông thị là Đế Minh sinh ra Đế Nghi. Rồi Đế Minh đi tuần đến phương Nam, lấy con gái Vụ Tiên mà sinh ra Vua [Kinh Dương]. Vua là bậc thánh trí thông minh, Đế Minh rất yêu quý, muốn cho nối ngôi, Vua cố nhường cho anh, không dám vâng mệnh. Đế Minh mới lập Đế Nghi làm con nối ngôi trị phưong Bắc, phong cho Vua là Kinh Dương trị phương Nam, gọi nước là Xích Quỷ. Vua lấy con gái của Động Đình Quân tên là Thần Long sinh ra Lạc Long Quân.
Lạc Long Quân:
Lạc Long Quân tên húy là Sùng Lãm, con trai của Kinh Dương Vương.
Vua [Lạc Long Quân] lấy con gái của Đế Lai là Âu Cơ, sinh ra trăm con trai (tục truyền sinh ra trăm trứng) là Tổ của Bách Việt. Một hôm Vua bảo Âu Cơ rằng: "Ta là giống Rồng, nàng là giống Tiên... bèn chia 50 con theo mẹ về núi ở, 50 con theo cha về miền nam (có bản chép là về Nam Hải), phong con trưởng làm Hùng Vương nối ngôi. Hùng Vương lên ngôi, đặt quốc hiệu là nước Văn Lang (nước ấy phía đông giáp Nam Hải, phía tây đến Ba Thục, phía bắc đến hồ Động Đình, phía nam giáp nước Hồ Tôn, tức Chiêm Thành), đóng đô ở Châu Phong (nay là huyện Bạch Hạc) chia nước làm 15 bộ...
@ Chính do huyền thoại trên đây, ban đầu được truyền khẩu qua nhiều đời đã tạo cho dân tộc Việt Nam một tâm thức nòi giống Rồng Tiên, dần dần được ghi chép thành truyện, thành dã sử. Đã là dã sử thì không thể bàn chuyện thực hư; điều đáng quan tâm là tâm thức ấy đã biểu hiện ra trong đời sống dân tộc như thế nào, ảnh hưởng vào phong tục tập quán, văn hóa xã hội, đúc kết nên dân tộc tính đặc thù miên viễn.
@ Nhà nghiên cứu Nguyễn Thị Huế có công trình nghiên cứu điền dã, đi tìm hiểu thực tế những chứng tích về họ Hồng Bàng ở Bắc Ninh, đã viết như sau:
"Ở một bãi rộng của dòng sông Đuống thuộc xã Á Lữ vùng Luy Lâu xưa đã có lăng Kinh Dương Vương. Đó là một gò đất vuông vắn, cao ráo trên bãi bồi của một khúc sông Đuống. Lăng nhỏ nhưng nghiêm trang, có bia ghi sự tích rõ ràng, có hoành phi: Nhật trùng quang / Nam bang thủy tổ.
"Và các câu đối như: Lập thạch ký công Nam thánh tổ, / Phong phần tổ phận Bắc thần tôn.
[Ảnh đầu bài: Mộ Tổ Hùng Vương]
"Ở phía nam của Bắc Ninh, ngoài Á Lữ còn có 15 địa điểm thờ Lạc Long Quân, Âu Cơ và 56 địa điểm thờ các thần Bách Noãn. Trong số thần Bách Noãn được thờ thì có ba địa điểm thờ Hùng Vương (con trưởng) và 53 nơi thờ các vị khác...
@ Hội thờ Âu Cơ:
"Cùng với việc thờ Lạc Long Quân, nhân dân ở đây (và trong vùng) cũng thờ người mẹ khai sáng giống nòi là bà Âu Cơ.
"Khác với Lạc Long Quân, những công việc của bà mẹ Âu Cơ đã được cụ thể hóa thành những bà Dâu, bà Đậu, bà Dàn, bà Mẹ Nước, bà Phật Mẫu Man Nương, v.v... được kể và được thờ thành một hệ thống khắp trong vùng Thuận Thành, Gia Lương. Đó là những bà mẹ biết dạy dân làm những công việc khai sáng. Như bà Man Nương biết dạy dân đào giếng lấy nước chẳng hạn, bà Dâu biết dạy dân trồng dâu nuôi tằm, bà chúa Á dạy dân xe tơ tằm thành chỉ để dệt vải may quần áo mặc."
II. TÂM THỨC LƯỠNG HỢP ÂM DƯƠNG - TÂM THỨC THIÊNG LIÊNG VÀ VŨ TRỤ
[Hình 1:Trống đồng]
[Hình 2:Mặt trống đồng]
Các nhà khảo cổ học và dân tộc học nghiên cứu hoa văn trên trống đồng ở nước ta có niên đại từ khoảng thế kỷ VII trước CN, trùng với khung thời gian và khung không gian xã hội Văn Lang - Âu Lạc (vùng Bắc Việt Nam và khu vực Nam Hoa Nam Trung Quốc), đã nhận định rằng người Việt cổ từng thể hiện những tâm thức Âm Dương trong đời sống giữa thiên nhiên và tâm thức thiêng liêng tương quan giữa con người và trời đất.
1. Tâm thức Âm Dương hay Lưỡng phân – luỡng hợp:
Trong quyển "Trống Đông Sơn" do nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 1987 (nhiều tác giả) có viết: "Bằng tư duy liên tưởng, Bà P. Maspêrô đã nhìn đến ý nghĩa lưỡng hợp – lưỡng phân ở các biểu tượng của nền văn hóa Đông Nam Á, trong đó có các biểu tuợng trên trống đồng. Nhiều nhà nghiên cứu nước ta cũng đã thấy yếu tố âm dương thể hiện ở họa tiết hoa văn trên mặt trống: cánh sao tượng trưng yếu tố dương, hoa văn "lông công" xen kẻ giữa các cánh sao tượng trưng yếu tố âm. Các hoa văn chim, hươu đối lập với các hoa văn cá rắn..."-
2. Cộng với tâm thức lưỡng hợp là tâm thức thiêng liêng:
Nhiều học giả cho rằng các cảnh trên trống đồng có liên quan đến tục thờ mặt trời. Những hình ảnh hội đua thuyền, hội nước, với trống đồng có ý nghĩa cầu nuớc, cầu mưa vì tiếng trống liên quan đến tiếng sấm.
"Các tác giả cho rằng trống đồng là vật thiêng, làm trung gian giữa cõi sống và cõi chết, giữa con người và thần linh." (Sđd, tr. 237)
. Đồng thời có tín ngưỡng cổ sơ thờ Trời Đất, với tâm thức "cha Trời, Mẹ đất", "trời tròn, đất vuông". Vuông, tròn là khái niệm âm dương lúc sơ khai, đồng thời cũng mang ý nghĩa cầu mong sự tốt đẹp.
Tục thờ Bàn Thiên không biết phát sinh từ thời nào, nhưng rất phổ biến trong dân gian từ Bắc chí Nam, nhất là từ Huế trở vào. Bàn Thiên là một bệ thờ chừng 4-5 tấc vuông được đặt trên một trụ cao khoảng 1,50 m ở trước sân nhà. Trên bệ thờ chỉ có lễ vật đơn sơ: hoa, nhang, 3 chung nước, có khi thêm gạo, muối. Mỗi tối gia chủ thắp nhang trước Bàn Thiên khấn nguyện Trời Đất rồi xá bốn hướng. Tín ngưỡng cha Trời mẹ Đất còn mang mối quan hệ ba ngôi Tam tài (Tam hoàng): Thiên hoàng, Địa hoàng, Nhơn hoàng; con người ở giữa Trời và Đất phải thông thiên, đạt địa.
3. Tâm thức về vũ trụ:
"Cũng có ý kiến cho hoa văn trống Đông Sơn là biểu hiện của một mô hình vũ trụ theo quan niệm của người xưa: mặt trống thể hiện cõi trời, cõi đất, tang trống thể hiện cõi nước., lưng trống thể hiện cõi âm." […] "Có thể người xưa đã có ít nhiều khái niệm về vũ trụ. Trang trí mặt trời được đặt ở trung tâm mặt trống, các hoa văn người và động vật có hướng ngược chiều kim đồng hồ..."
III. TÂM THỨC ĐỊA LINH TỔ QUỐC
:
Ba núi thiêng vùng đất tổ
1. Lê Quí Đôn viết trong Kiến Văn Tiểu Lục (1723-1733): "Núi Tam Đảo thuộc huyện Tam Dương. Mạch núi này do khí thế cao cả của các núi ở các xã Ký Phú, Huân Chu và Cát Nê thuộc huyện Phú Lương và Đại Từ trấn Thái Nguyên kéo đến. Đến đây đột khởi ba ngọn cao vút đến tận mây xanh [...] ở giữa là ngọn Thiên Kim, cao chót vót, ghềnh đá không biết bao nhiêu mà kể. Sườn núi có chùa Tây Thiên, tre xanh thông tốt, cảnh sắc trang nhã.
Trên núi cao lại có chùa Đồng Cổ, vừa lên vừa xuống phải mất hai ngày..."
2. Cũng trong Kiến Văn Tiểu Lục, Lê Quí Đôn viết: "Núi Tản Viên , địa giới ở huyện Bất Bạt và Minh Nghĩa, mạch núi từ Mường Thanh liên tiếp chạy dài, đến đây thì nổi vọt ba ngọn thành hàng ở giữa hai sông Thao, Đà, cảnh sắc xinh tươi, hình thể cao cả, như trấn giữ đất nước. Ngọn giữa rất cao thờ thượng đẳng thần linh; đỉnh núi, sườn núi và chân núi có các đền thượng, trung và hạ, núi cao sát chân trời xanh, suốt ngày có mây mù bao phủ."
3. Còn núi Hùng , tương truyền là nơi xưa kia Hùng Vương dựng cung điện được Lê Hải Cương mô tả trong Địa Dư Chí như sau: "Mạch núi từ Tam Đảo bổ xuống... ở phía tây núi non la liệt, phía đông có nước sông Đà lượn quanh, lại có các ngọn nước tụ hội ở ngã ba sông, thật là bố cục lớn về phong thủy. Trên núi có miếu Hùng Vương, bên cạnh miếu có hai cột đá, lại có chùa Thiên Quang.
"Nếu lấy đền Hùng làm trung tâm với bán kính khoảng 20 cây số thì kinh đô Phong Châu xưa là một vùng rộng lớn, nơi hội tụ của trời đất, nước và con người. Những di chỉ khảo cổ trong vùng đã và đang minh chứng cho một bề dầy lịch sử hàng ngàn đời của vùng đất tổ
này."
IV. VĂN HÓA DUNG HỢP
Nghiên cứu nền văn hóa nguyên thủy của người Giao Chỉ, các nhà khảo cổ học và dân tộc học cho rằng khởi đầu đó là những nét văn hóa phát sinh từ đời sống nông nghiệp. "Hoa văn trống đồng đã ghi lại những dấu vết của sinh hoạt thị tộc, những dấu vết của nghề săn bắn và những hình thức sớm của nghề trồng trọt với tính cách là những hình thức sản xuất chủ yếu, cùng với những hình thức tổ chức xã hội và và các thiết chế xã hội tương ứng... Những nghi lễ được ghi khắc trên đó, có từ thời cổ đại, qua suốt thời kỳ trung cổ và tồn tại mãi cho đến gần đây. Đó là cái mà nguời ta thường gọi là nghi lễ nông nghiệp với tục thờ sinh thực khí."
Từ đó người Việt cổ có tục thờ Man Nương (man: mưa), để rồi đến khi Đạo Giáo du nhập vào, thì Man Nương trở thành Mẫu Man Nương, vị nữ thần giúp dân có được mùa màng sung túc, đời sống ấm no; và tâm thức sùng bái thiên nhiên trời đất trở thành tín ngưỡng thờ Tứ Pháp (Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện).
Điểm đặc biệt hơn nữa là bên cạnh tín ngưỡng thờ Tứ pháp (tín ngưỡng tôn thờ thần linh thiên nhiên) dân tộc Việt Nam còn có tín ngưỡng thờ Tứ bất tử từ lâu đời. Đó là các tín ngưỡng:
_ Thần núi Tản Viên, tức Sơn Tinh_Nhà Lý đã phong Tản Viên là "Thượng đẳng tối linh thần" và "Đệ nhất phúc thần". Đền chính là Đền Thượng núi Ba Vì.
Thần Tản Viên Là biểu tượng của sức mạnh liên kết, liên kết giữa đất và núi, liên kết giữa các bộ lạc, liên kết giữa con người và thánh thần. . . .
_ Chử Đồng tử: Chữ Đồng Tử:Chử Đồng Tử đi vào tâm thức dân gian không chỉ là người con hiếu thảo, nhân ái, mà còn là biểu tượng của một chí hướng phát triển cộng đồng.
Chữ Đồng Tử theo truyền thuyết, còn gặp được chân sư, cùng với vợ là công chúaTiên Dung tu luyện thành tiên.
Chử Đồng Tử và phu nhân được thờ ở nhiều nơi thuộc tỉnh Hưng Yên như Đa Hoà, Dạ Trạch, v.v..., thuộc tỉnh Hà Tây như xã Tự Nhiên.
_ Thánh Gióng: Thánh Gióng:Tương truyền từ thời Hùng Vương, nhà vua đã lập đền thờ ở làng và tôn là Phù Đổng Thiên Vương. Về sau được các vua phong thần nhiều lần.
Thánh Gióng tượng trưng cho chí khí anh hùng bất khuất của dân tộc Rồng Tiên.
_ Thánh Mẫu Liểu Hạnh: [Hình 4:Công chúa liễu Hạnh (tranh dân gian)]
Tương truyền là tiên giáng trần nhiều kiếp để âm phò mặc trợ cho nhân dân và bảo vệ đất nước. . Trong tâm thức người Việt, Thánh mẫu LH thuộc về
tín ngưỡng thờ Mẫu, một tín ngưỡng có cội nguồn lâu đời và độc đáo của Việt Nam.
Thánh mẫu Liễu Hạnh tượng trưng cho bản chất "nữ tướng tài thành" theo Khôn đạo của phụ nữ VN
Đạo Cao Đài đã minh chứng Thánh Mẫu Liễu Hạnh chính là Đức Vân Hương Thánh Mẫu mà trong thời TKPĐ nầy ngài đã thọ lệnh Đức Vô Cực Từ Tôn giáng linh điển trở về tổ quốc Việt Nam để thực hiện sứ mạng kỳ ba nói chung, và độ dẫn phụ nữ VN nói riêng. Những bài dạy đạo của Ngài luôn có khẩu khí của một vị thánh mẫu VN đầy tình thương dân mến nước và ưu ái truyề thống Rồng Tiên:
" Nhân thế rằng tiên trở gót hài,
Vì ai mà đến biết chăng ai ?
Lá cờ Việt nữ nghìn năm trước,
Giọng hát Nam Giao vạn thuở này;
Ào ạt tây phong hồn đã lạc,
Lờ mờ đông trúc nước đang say.
Lần ba là một lần chung kết,
Xây dựng cõi đời đạo thái lai."
Đến thế kỷ III, khi Sĩ Nhiếp được Hán đế phong làm thái thú Giao Châu, thì người Giao Chỉ được tiếp thu văn hóa
Tam Giáo từ phương Bắc và văn hóa Ấn do các đại sư truyền sang. Sử thần Ngô Sĩ Liên viết: "Nước ta được thông Thi Thư, tập Lễ Nhạc là một nước văn hiến bắt đầu từ Sĩ Vương, công đức ấy không chỉ ở đương thời mà có thể tryền mãi đời sau, há chẳng lớn sao?"
Đền thờ Sĩ Nhiếp – Nam Giao học tổ, tuy bị hư hỏng nhiều nhưng vẫn còn trong thành Luy Lâu (vùng Kinh Bắc nước ta). Ông là người đã đem văn hóa Trung Quốc truyền vào Luy Lâu một cách mạnh mẽ, đàng hoàng và hệ thống, nhưng cũng là nguời có công tu tạo, tôn vinh, quy chuẩn phong tục bản địa. Ông là người đã mở trường dạy Luận Ngữ rồi đến Ngũ Kinh.
Ông cũng là người sai tạc tượng Tứ Pháp, lấy gỗ từ cây đa do Man Nương kéo từ dưới sông lên.
Phải chăng ông đã kết hợp được Nho, Phật, Đạo, phát triển được văn hóa dân gian nên tạo được cảnh hòa bình trong hơn 20 năm?
V. LỊCH SỬ NƯỚC NHÀ
Lịch sử nước nhà là chuỗi dài thời gian trong đó diễn ra những sự kiện, những biến cố tác động một cách tiêu cực hoặc tích cực vào quá trình tồn tại và phát triển của dân tộc trong quốc gia. Nói khác đi, lịch sử là những gì ghi nhận thành quả lao động, chiến đấu, tư tưởng trong quá trình xây dựng, bảo vệ đất nước và phát triển của một dân tộc.
Trên dòng lịch sử trải nhiều thế hệ, mỗi thế hệ thừa kế, phát huy tinh thần dân tộc của thế hệ trước, lại sáng tạo, xây dựng những kỳ công mới, tất cả un đúc thành bản chất đặc thù của dân tộc, thấm nhập trong tâm khảm và đời sống của mỗi con dân.
Nhìn lại lịch sử Việt Nam, những thời đại uy hùng đã làm nên bản chất ấy, nhờ đó dân tộc ta tồn tại trên một lãnh thổ toàn vẹn, một nền văn hiến rực rỡ, một truyền thống đạo đức nhân bản.
* Thời đại Hùng Vương dựng nước Văn Lang với niềm tin con Rồng cháu Tiên, với tình đồng bào "một mẹ trăm con", với tinh thần quật cường thánh Gióng chống giặc.
* Thời đại Đại Việt , với tâm thức thiên mạng: Nam quốc sơn hà Nam đế cư, / Tiệt nhiên định phận tại thiên thư; / Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm, / Nhữ đẳng hành khang thủ bại hư.
* Rồi ý chí kiên cường, lòng tự tin sắt đá "Đầu hạ thần chưa rơi, xin bệ hạ đừng lo" cộng với tinh thần dũng mãnh chống xâm lược của toàn dân qua tiếng thét đồng tâm "quyết chiến "của hội nghị Diên Hồng... tất cả đã làm nên giáp sắt cho dân tộc và thành đồng cho tổ quốc.
Đó là tinh thần độc lập tự chủ, là thiên bẩm thiêng liêng của con người, là quyền tự do của mọi dân tộc, khiến cho người dân "thà hy sinh tất cả chứ không chịu làm nô lệ". Đối với dân tộc Việt Nam, tinh thần đó càng không phải là tính hiếu chiến.
Bình Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi là tuyên ngôn của Vua, là tâm huyết của toàn dân, tuy rất căm thù giặc Minh xâm lược "Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội; dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa hết mùi." Nhưng vẫn thể hiện tính nhân nghĩa, đức hiếu sinh là huyết thống ngàn đời của dân Nam: "Đem đại nghĩa để thắng hung tàn, / Lấy chí nhân để thay cường bạo."
Và: "thần vũ chẳng giết hại, thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh."
Những thời kỳ đất nước thanh bình thịnh vượng, dân tộc ta vốn có bản năng dung hợp văn minh văn hóa các dân tộc khác từ phương Bắc xuống, từ Ấn Độ sang, từ Đông Nam Á đến, cộng với căn bản văn hóa và tín ngưỡng thời nguyên sơ trên đất tổ, đã sản sinh ra những bậc minh triết thượng thừa trong Tam Giáo đạo, những anh tài, thục nữ, những hàng tế thế an bang, những văn hào lỗi lạc... Tất cả đã góp phần xây dựng một nền văn hóa dân tộc, văn hóa đạo đức làm nền tảng cho đời sống nhân sinh an lạc và thiên hướng tâm linh dung hóa.
Đến thời cận kim, hiện đại, những thử thách lịch sử khốc liệt cũng không thể đánh mất tiền định "độc lập, tự chủ" của giống dòng Âu Lạc, mà còn minh chứng những giá trị tinh thần ngàn đời đã làm nên một Việt Nam bất diệt.
VI. TỪ BẢN THỂ ĐẠI ĐỒNG DÂN TỘC đến TAM KỲ PHỔ ĐỘ
Từ tâm thức giống nòi Rồng Tiên, đến tâm thức lưỡng hợp Âm Dương – một ước vọng phồn thịnh hóa cuộc sống; tâm thức đơn sơ về vũ trụ: người vật xoay chuyển chung quanh trung tâm mặt trời; trực nhận khí thiêng sông núi, địa linh đất tổ; bản năng dung hợp văn hóa; lòng yêu nước nồng nàn, tình đồng bào thắm thiết, niềm tin độc lập tự chủ với thiên hướng sùng bái thần linh, tín ngưỡng thờ Trời Đất... đã tổ hợp thành một Bản thể vô hình mà sở năng sở dụng có giá trị thống nhất tinh thần mỗi con dân nước Việt, để:
- Đoàn kết chiến thắng xâm lăng khi quốc biến,
- Xây dựng đất nước, phát huy văn hóa thuở hòa bình,
- Thăng hoa tâm linh trong cuộc sống nhân sinh an lạc.
Bản thể ấy không thấy được bởi biến hóa như con Rồng thiêng uy dũng, không sờ chạm được mà an nhiên, nhân ái do phẩm chất con Tiên. Nó bao hàm sức sống bất diệt lẫn tâm tâm linh siêu xuất. Những dấu ấn bốn ngàn năm lịch sử và thực tế trường tồn của dân tộc trên nền văn hiến huy hoàng sâu sắc, với khả năng thâu hóa dung hợp vân minh Đông Tây của thế giới, đã minh chứng Thực tại thiêng liêng ấy hay Bản thể đại đồng của dân tộc Việt Nam là di sản vô giá, là lẽ sống và năng lực tiến hóa vĩnh cửu.
Chính bởi dân tộc Việt Nam có một Bản thể như thế nên đã được Đức Chí Tôn ban trao sứ mạng hoằng khai Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ: "Các con là dân tộc Việt cũng như dân tộc khác sanh trưởng tại quả địa cầu này. Tình thương Tạo Hóa cũng ban đồng cho các con cũng như các con khác, nhưng dân tộc các con đã đau khổ quá nhiều, non sông tổ quốc các con đã bị dày xéo lâu đời. Nhưng các con trội hơn chúng về đức tin, lòng đạo đức ngưỡng mộ Thượng Đế và các Đấng trọn lành. Tình thương các con không thiếu, lòng hiếu hòa các con có thừa. Do đó, dân tộc các con mới hạnh ngộ Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ" (Đức Chí Tôn, Thiên Lý Đàn, 19-12-1968)
Đức Từ Mẫu cũng nhấn mạnh vinh hạnh ấy của Việt Nam: "Luật định thiên nhiên, Tam nguơn vận chuyển, đến thời kỳ phải dùng tiểu quốc để khai Hội Niết Bàn nên muợn Việt Nam ban truyền chánh đạo."
Vậy "mượn Việt Nam ban truyền chánh đạo" không phải là một sự tình cờ, mà chính vì Việt Nam có khả năng tiếp nhận và phát huy chánh đạo.
Chánh đạo là Đại Đạo. Đại Đạo là Nhứt nguyên của Tam Giáo và nhứt lý của vạn giáo. Nhìn lại nền văn hóa đạo đức của dân tộc, nhen nhúm từ sơ khai, sáng chói thời Lý Trần, âm ỉ mãi về sau, giáo lý Tam Giáo đã được dung hợp và chuyển hóa sâu sắc trong tinh thần lãnh đạo quốc gia của các bậc minh quân, thấm nhuần trong tình yêu nước thương dân của các bậc công thần, thể hiện trong phong tục tập quán, trong sinh họat tâm linh của người dân Việt.
Vua Trần Thái Tông từng viết: "Nho điển thi nhân bố đức, Đạo kinh ái vật hiếu sinh, Phật duy giới sát thị trì." (Sách đạo Nho dạy thi nhân bố đức, Kinh đạo Lão bảo yêu thương mọi vật và tôn trọng sự sống, thì đạo Phật cũng chủ trương là hãy giữ giới sát đừng sát sinh hại vật.)
Từ năm 1237, vua Trần Thái Tông bắt đầu chấn hưng Quốc học trên nền tảng tinh thần Tam Giáo, cho nên mới có kỳ thi Tam Giáo vào năm 1247, mùa thu. Việt Sử Cương Mục chép:
"Trước đấy những nhà nho theo Nho Giáo, Thích Giáo, Đạo Giáo mà có con nối được nghiệp nhà đều cho vào thi. Nay lại thi những người thông cả ba khoa về ba tôn giáo." (Ch. b. VI.30)
Năm 1253, nhà vua lập Viện Quốc Học. Khi Viện xây xong, nhà vua bắt đắp tượng Chu Công, Khổng Tử và Mạnh Tử và vẽ 72 người hiền để thờ. Lại hạ chiếu cho học trò trong nước vào Viện Quốc Tử để giảng nghĩa lý Ngũ kinh, Tứ thư. Như thế đủ tỏ rằng nhà vua ngày càng tôn trọng Nho Giáo ngang hàng với Phật giáo và Lão giáo..."
[Hình 5:Lễ hội Đền Hùng]
Đức Trần Hưng Đạo cầm quân oai dũng đánh tan giặc Nguyên, trung quân ái quốc trọn đời, đến lúc lâm chung còn để lại tâm huyết với vua rằng: "Khoan thứ sức dân, lấy kế bền gốc sâu rễ là thượng sách giữ nước."
Nguyễn Trãi khi được vua sai định lễ nhạc đã tâu rằng: "Đời loạn thì dùng võ, thời bình thì dùng văn. Ngày nay định ra lễ nhạc là đúng lúc. Song không có gốc thì không thể đứng vững, không có văn thì không thể lưu hành... [...] Dám mong bệ hạ rủ lòng thương yêu và chăn nuôi muôn dân, khiến trong thôn cùng sớm vắng không còn một tiếng hờn giận oán sầu, đó là cái gốc của nhạc vậy."
Nên đến thời Tam Kỳ Phổ Độ, chơn linh bậc cao tăng đời Lý, đức Vạn Hạnh Thiền Sư còn thắp sáng lại truyền thống đạo đức dân tộc:
Chuỗi dài ý hệ cõi Nam giao,
Thánh Đạo Nho Tông những sắc màu,
Đã có trường thi Tam Giáo trước,
Nhịp cầu nối tiếp nhịp theo sau.
. . .
Đó là Tam Giáo được đồng nguyên,
Về với ông cha một chiếc thuyền,
Thuyền đạo đóng bằng tư tưởng đạo,
Cho tròn danh nghĩa đấng Cao Thiên.
Bản thể đại đồng dân tộc không chỉ đơn thuần mang tính tôn giáo, ngược lại có đủ bản chất nhân sinh lẫn tâm linh, nó đã đúc kết những tác năng có giá trị chân thiện mỹ làm thành cái HỒN VIỆT NAM, làm lẽ sống, làm nguyên lý tiến hóa bất diệt. Đó là bản chất Đại Đạo vừa thiên phú vừa tự xiển dương của dân tộc ta.
Thế nên bất cứ thời nào, hoàn cảnh nào, Việt Nam đều có thể vận dụng Bản thể ấy để tồn tại và phát triển:
Thiên hạ đua nhau kiếm đũa thần,
Để lo trị quốc với an dân,
Đũa mình sẵn có, cơm mình có,
Mượn chác làm chi nhục trí nhân.
Nếu các nhà dân tộc học cho rằng một trong những ý nghĩa của trống đồng Việt Nam là trung gian giữa con người và thần linh, thì ngày nay đạo Cao Đài có thể nói: Bản thể đại đồng dân tộc là gạch nối giữa dân tộc và anh linh tổ quốc. Bài kinh cúng chư thần Việt Nam trong đạo Cao Đài là một minh chứng:
Trời Nam đất Việt cao dày,
Hồng Bàng mở nước đến nay năm ngàn.
Âm dương tụ khí thanh chơn,
Non sông linh tú xuất sanh thánh thần.
Từ Hồng Lạc đến trào Trần,
Biết bao liệt sĩ chơn nhơn độ người.
Việt Nam linh cảm khắp nơi,
Nhiều người kinh quốc tế thời an dân.
Nhiều người khuê các xuất thân,
Hiển danh Thánh Mẫu rạng Thần Nữ Vương.
Oai linh Thiên cổ thanh chương,
Công tày biển rộng, đức dường núi cao.
Và tâm sự tiền nhân đã về cõi thiêng liêng hãy còn ôm ấp Hồn thiêng nước Việt:
Nước của mình, dân mình đấy nhé.
Ổ chim hồng sẻ đẻ sao đang,
Tiền nhân công nghiệp huy hoàng,
Dựng nên biển bạc non vàng ngày nay.
Giờ ta hãy chung tay góp sức,
Giờ ta toan nỗ lực hy sinh,
Hy sinh tự hữu chính mình.
Đắp xây nền tảng thái bình trời Nam.
. . .
Một dân tộc tinh thần tự chủ.
Mấy ngàn năm uy vũ kiêu hùng,
Nam phương góc đất vẫy vùng,
Non sông một giải muôn chung hải hồ.
Công tiền nhân cơ đồ tạo lập,
Cho cháu con bồi đắp giang san;
Giang san trên mãnh đất vàng,
Hai mươi mấy triệu Hồng Bàng còn đây.
. . .
Lần trang Việt sử mà xem,
Lạc Hồng văn hiến trước thềm đông phong.
Và:
Ngày nay Trời mở Đạo Nhà,
Cho hồn Nam Việt tinh ba kết thành.
Sở dĩ khi Đức Chí Tôn Thượng Đế khai đạo Cao Đài, gọi là "Trời mở Đạo Nhà", chính vì đó không phải là cái Đạo xa lạ đối với dân tộc Việt Nam, mà Đạo ấy vốn đã sẵn có trong tâm thức, trong tiềm thức người con dân nước Việt.
Nhưng Cao Đài chẳng những là Đạo Nhà mà còn là Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ để cứu độ tòan thể nhân loại trong đức hiếu sinh của Thượng Đế.
Thế nên, từ Bản thể đại đồng Việt Nam phát huy lên đạo Cao Đài để Cao Đài Việt Nam làm gạch nối liền với Bản thể đại đồng nhân lọai, thực hiện Cơ cứu thế kỳ ba:
Muốn cứu mình, cứu nguy thiên hạ,
Vững niềm tin Tạo Hóa chí công;
Trở về nguồn cội Tổ tông,
Đó là cái Đạo ở trong mỗi trò.
VII. KẾT LUẬN
Từ "nguồn cội Tổ tông" là Bản thể của dân tộc, làm đầu mối thể nhập vào Đạo tại tâm, chính là Bản thể tự thân như lời dạy của Đức Vạn Hạnh Thiền Sư:
"Hãy chấp tay hướng mắt vào bản thể của con người vạn thể tự tâm thể biến sanh, các tiểu linh quang hằng định vẫn có và hằng có. [...]
Tóm lại, cái chinh phục chiến thắng vĩ đại nhứt là cái chinh phục chiến thắng bản thể của con người. Đừng hàm hồ nhìn những gì to tát ngoài kia, thực sự những cái ấy đều tự chứa trong con người mà chính con người chẳng hay chẳng biết. Tự chủ được bản thể là tự chủ được thiên hạ. Chinh phục được con người hiện hữu là chinh phục được vũ trụ hằng tồn. Đừng lo cái không đáng lo, đừng nghĩ cái không đáng nghĩ, hãy bước thẳng và lặng nhìn vào Thiên tâm bản thể."
Thiên tâm bản thể chính là nơi hội nhập cuối cùng huy hoàng nhất của:
_ Bản thể con người
_ Bản thể đại đồng dân tộc
_ Bản thể trời đất/ vũ trụ
Bài phú sau đây của Đức Giáo Tông Vô Vi Đại Đạo là một đúc kết cho những ý nghĩa của Bản thể đại đồng dân tộc:
PHÚ
Hỡi tu sĩ muốn hoằng dương nền chánh giáo,
Hỡi nhơn tài mong hoài bão được non sông,
Hỡi ai kia làm sao cho rạng rỡ giống Tiên Rồng,
Cho bốn biển năm châu cùng hạnh phúc.
Giữa dòng đời phải lóng trong hay gạn đục,
Trong đạo trường điều họa phúc phải cân phân;
Biết bao nhiêu người trí thức, bậc vĩ nhân,
Thiếu chi khách hùng anh cùng nữ liệt.
………………………………………….
Trí thức ôi!
tình nhân loại hãy mở cửa mà dung nạp,
Nhân tài ôi!
cảnh nguy vong đang tràn ngập khó phui pha,
Nắm tay nhau sửa dựng mối Đạo nhà,
Nên chung trí hầu lướt qua nơi biển khổ.
Kìa cuộc sống tạm thấy biết bao vạn khổ,
Chí hùng anh tìm đến chỗ vượt thang cao,
Nọ biển trần ai,dầu gặp phải lượn sóng ba đào,
Chí quả cảm anh thư nào thối bước,
Đạo Cao Đài là phương dược thoát trần mê,
Phải chung tâm hòa trí cho vẹn mọi bề,
Chi chi cũng trọn lời thề khi thuở trước.
Ba vạn sáu nghìn ngày thay lớp áo,
So ngàn xưa sử đạo cả Tây Đông,
Sao chẳng sớm gieo trồng mầm Nam Bắc?
Nguơn phản cổ đổi thay toàn vạn vật,
Hội Long Hoa gieo rắc mối chơn truyền,
Nay đến kỳ vạn giáo tổng đồng nguyên,
Thì tình nhơn loại không riêng nơi nào.
Rồi đây phải tính làm sao?
***
Tính sao cho được nghiệp nhà yên,
Mới định non sông mối chánh truyền . . .
Núi Tam Đảo: Dãy núi ở Bắc Bộ, dài 50 km, ngăn cách 2 tỉnh Thái Nguyên và Vĩnh Phúc; núi có 3 đỉnh: Phù Nghĩa, Thành Bàn, Thiên Thị (1585m) . . . . Ở độ cao 100m , có thác Bạc trên sườn núi dựng đứng. Cách Vĩnh yên 24 km, Hà Nội 86 km về phía Tây Bắc.
Núi Tản Viên: Núi ở xã Thủ Pháp, huyện Bất Bạt tỉnh Sơn Tây, nay thuộc huyện Ba Vì, tỉnh Hà Tây, giáp tỉnh Hòa Bình; còn gọi là núi Ba Vì; núi có 3 đỉnh ( Ông, Bà, Chẹ ), đỉnh cao nhất 1281m, ngày đêm mây phủ, ngọn giữa có hòn thắt cổ bồng, trên tỏa ra như cái tán nên gọi làTản Viên. Tản Viên là danh sơn của nước Việt Nam cổ xưa, vì núi do thần Sơn Tinh giữ để chống nhau với Thủy Tinh.
Đền thần Tản Viên: Đền thờ thần núi Tản Viên ở núi Tản Viên, xã Ba Vì, huyện Ba vì, tỉnh Hà Tây. Ông tên thật là Nguyễn Tuấn (còn gọi là Tùng ), lấy công chúa Mị Nương, từng đánh dẹp vua Thục. Đời sau gọi thần núi Tản Viên là vị tổ của bách thần nước ta.
Đền Hùng: Đền Hùng là một di tích lớn được
dựng trên núi Nghĩa Lĩnh giữa đất Phong Châu, nay thuộc xã Hy Cương, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ. Theo sử sách, sau khi chọn Phong Châu là đế đô của nước Văn Lang 4000 năm trước, các vua Hùng đã chọn núi Nghĩa Lĩnh làm nơi tế trời đất, chủ thần và thiên cổ ( núi Nghĩa Lĩnh còn có tên là Hy Cương, Nghĩa Cương, Hùng Lĩnh, núi Hùng Cao 175m)
Cổng vào Đền Hùng xây theo kiểu tam quan, hai tầng. Cửa ra vào cao rộng ở chính giữa, trên có 4 chữ lớn "Cao sơn cảnh hàng" nghĩa là núi cao đường lớn. Qua cổng trèo 225 bậc đá lên đến đề Hạ. Ở đây có chùa Thiên Quang, (trước có cây thiên tuế 700 tuổi). Chùa có gác chuông khá bề thế. Từ đền Hạ xuống vài chục bậc đá đến đề Giếng, nơi thờ công chúa Tiên Dung và công chúa Ngọc Hoa, con vua hùng thứ 18. Từ đền Hạ lên 168 bậc thang thì đến đền Trung – nơi các vua Hùng thường đến bàn việc nước với quần thần. Đi tiến lên 102 bậc đá thì đến đền Thượng, nơi vua Hùng làm tế lễ Trời, Đất, Thần Núi, Thần Lúa. Đền có bức hoành phi lớn 4 chữ vàng "Nam Quốc Sơn Hà". Trước đền có cột đá dựng trên bệ cao gọi là "đá thề", nơi Thục Phán nguyện đời đời tế tự các vua Hùng và giữ gìn cơ nghiệp họ Hùng truyền lại. bênđền Thượng thấp hơn vài chục bậc là lăng Vua Hùng, tượng trưng cho mộ Tổ, xây dựng đầu thế kỷ này (XX). Toàn bộ khu di tích được trùng tu hoặc xây thêm cách đây non 100 năm; gần đây trên núi Hùng đã tìm thấy nhiều di vật của kiến trúc cổ từ thời Lý Trần trở về trước như gạch ngói cổ, thạp đất nung, cột đá . . .
Hàng năm, hội Đền Hùng mở vào ngày 10 tháng 3 âm lịch, hội lễ dâng hương tưởng niệm các Vua Hùng, tổ tiên của người Việt Nam.