Những liên kết dưới đây có thể hữu ích với bạn.
-
Quyển “Cao Đài Vấn Đáp” do Ban Văn Hóa Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Đại Đạo biên soạn, nhằm ...
-
Quan Phổ Thông Giáo Lý. Tuất thời, 14 tháng 8 Đinh Tỵ (26-9-1977) Gác áng tường VÂN gót lãng du, Ngút trầm ...
-
Cựu Ước /
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia Cựu Ước, còn gọi là Kinh thánh Do Thái, là phần đầu của toàn bộ ...
-
Câu thần chú Có một nhà thông thái, lúc biết mình sắp ra đi theo tổ tiên, liền gọi các con ...
-
Đất nước Việt Nam với dòng giống Rồng Tiên đã sản sinh ra biết bao anh hùng dân tộc hằng ...
-
Con Người Đại Đạo phải là một Nguyên nhân; đó là người đạt đến Thượng trí tức cái Chơn tri ...
-
Hằng ngày sinh họat đạo, đọc sách đạo, chúng ta thường gặp hai chữ "đại đồng", nhất là mục đích ...
-
"Nhắc lại đoạn đầu tôi nhập môn rồi, khiến lòng tôi suy nghĩ cuộc đời không thấy ích gì cho ...
-
Học Dịch có thể chia ra làm hai đường lối: 1. Một là học gốc Dịch tức là chuyên khảo về ...
-
Nhìn lại cơ Đạo, từ sơ khai đến khi hình thành và phát triển sẽ ghi nhận được những bước ...
-
"Cơ biến dịch vô cùng của Tạo Hóa không phút giây ngừng nghỉ, hết Đông Xuân lại, rồi Hạ đến ...
-
"Người những tưởng Cao Đài tôn giáo, Nào hay đâu Đại Đạo hoằng dương, Gồm thâu trăm nẻo ngàn đường, Tam nguơn chuyển ...
Dũ Lan Lê Anh Dũng
Bài viết được cập nhật lần cuối vào ngày 30/12/2009
Đạo Cao Đài qua mắt nhìn của Mục sư Victor L. Oliver
Năm 1970 Mục sư Victor L. Oliver qua Việt Nam. Ông được Đồng Tân Trần Thái Chân giúp đỡ rất tích cực trong việc khảo sát thực tế một số cộng đồng Cao Đài để bổ sung chỗ kiến thức ông đã thu lượm qua sách vở khi còn ở nước ngoài. Quyển Tìm hiểu đạo Cao Đài của Đồng Tân (Sài Gòn, 1974, tr. 156), cho thấy một bức ảnh (không rõ nét lắm) chụp Victor L. Oliver cùng với bốn người nữa đang ở đảo Phú Quốc, tại một địa điểm mà xưa kia tiền bối Ngô Văn Chiêu đã nhìn thấy cảnh bồng lai hiện ra trên bầu trời Dương Đông. Trong lời cảm tạ đầu sách Caodai spiritism, bày tỏ lòng biết ơn với Đồng Tân, Victor L. Oliver viết: "Ở Việt Nam, ông Trần Thái Chân, một tác giả Cao Đài, đặc biệt rất hữu ích." "In Việt Nam Mr. Trần Thái Chân, the Cao Đài author, was especially helpful." (Acknowledgements, không ghi số trang.) Cũng trong lời cám ơn đầu sách, Oliver cho biết rằng việc ông sang Việt Nam nghiên cứu về Cao Đài đã hoàn tất trước khi những ngày cuối cùng của chiến tranh Việt Nam kết thúc.
Đề tài nghiên cứu Cao Đài của ông được hai tổ chức bảo trợ: (1) The Center for Vietnamese Studies and Programs (Trung tâm Nghiên cứu và các Chương trình về Việt Nam), thuộc Viện đại học Southern Illinois, Mỹ; và (2) The Wenner-Gren Anthropological Foundation (Tổ chức Nhân chủng học Wenner-Gren).
°
Caodai spiritism được viết lại từ luận án tiến sĩ của Victor L. Oliver bảo vệ tại Viện đại học Syracuse năm 1972, nhan đề Caodaism: Vietnamese example of sectarian development (Đạo Cao Đài: một kiểu mẫu về sự phát triển giáo phái tại Việt Nam.)
Trong lời dẫn nhập (Introduction, p. 3) quyển Caodai spiritism, Victor L. Oliver cho biết rằng ông bắt đầu quan tâm tới đạo Cao Đài trong những năm 1962-65 khi sống ở miền nam Việt Nam. Sau khi đến thăm các thánh thất Cao Đài và có được chút ít kiến thức sơ sài về đạo Cao Đài, ông cảm nhận rằng đạo Cao Đài sẽ là một đề tài đầy thách thức khi muốn nghiên cứu sâu hơn, nếu như trước đây chưa có ai nghiên cứu như vậy. "After visiting some of the elaborate Caodai temples and gaining a superficial knowledge of the religion, I felt that Caodaism would make a challenging subject for further research, providing no such study had been done." (p. 3)
Trong quá trình hoàn thành các yêu cầu cho học vị tiến sĩ tại Viên đại học Syracuse (Mỹ), Victor L. Oliver đã được đọc các tư liệu về Cao Đài nằm trong bộ sưu tập Wason (the Wason Collection) tại Thư viện của Viện đại học Cornell (Mỹ). Nhận thấy nguồn tư liệu về Cao Đài của bộ sưu tập Wason còn sơ sài, ông tìm đến các học giả, những nhà nghiên cứu phương Tây hiểu biết nhiều về Việt Nam. "Tất cả những người này đều biết rằng đạo Cao Đài có một vai trò quan trọng trong lịch sử Việt Nam gần đây, và họ cũng đồng ý rằng chắc chắn có một sự thiếu thốn dữ liệu về đạo Cao Đài." "All of them were aware of its important role in the recent history of Vietnam, and agreed that there was a definite lack of data on Caodaism." (p. 3)
Thế là Victor L. Oliver sang Việt Nam. Với nguồn tài liệu thu thập tại quê hương của đạo Cao Đài, ông có nhận xét như sau (p. 4):
1. Không có một nghiên cứu nào bằng tiếng Việt hay bằng các ngôn ngữ phương Tây lại trình bày được đạo Cao Đài như một tổng thể, bao gồm cả sự phát triển các phái và tổ chức Cao Đài khác nhau.
2. Các tác giả Việt Nam viết về đạo Cao Đài có xu hướng coi phái mình là trung tâm (ethnocentric point of view) và bỏ qua các tổ chức Cao Đài khác nếu như các tổ chức ấy không cùng một phái với người viết.
°
Dày hơn 140 trang, Caodai spiritism của Victor L. Oliver là quyển thứ 34 trong tủ sách chuyên đề Studies in the History of Religions (nghiên cứu lịch sử các tôn giáo) của nhà xuất bản E. J. Brill. Sách gồm năm chương: I. Nguồn gốc lịch sử của đạo Cao Đài (27 tr.); II. Sự thành lập đạo Cao Đài (20 tr.); III. Cao Đài Tây Ninh và Cao Đài Chiếu Minh Tam thanh (32 tr.); IV. Sự phát triển các phái Cao Đài (24 tr.); V. Những nỗ lực để thống nhất các phái (10 tr.)
Trong Phụ lục (21 tr.) Oliver nói thêm về: I. Điều kiện thăng cấp của các chức sắc, chức việc Cửu trùng đài và Hiệp thiên đài; II. Vấn đề đóng góp công quả cho Tòa thánh Tây Ninh; III. Giới thiệu khái quát về các phái và tổ chức trong đạo Cao Đài.
Victor L. Oliver đã được tiếp cận các cộng đồng Cao Đài trong Nam, đi ra Hội thánh Truyền giáo Cao Đài ở Đà Nẵng, đặt chân trên cả đảo Phú Quốc, là một trong mấy nơi phát tích đạo Cao Đài... Ông cũng đã được tiếp cận từ hệ thống phổ độ Tây Ninh đến các đàn vô vi của Chiếu Minh, và hiểu biết cả Cơ quan Phổ thông Giáo lý... Do đó, đọc sách ông, người phương Tây có thể hiểu biết khá nhiều về đạo Cao Đài, lược sử nền Đạo, nghi thức cúng thời, thậm chí còn biết được khái quát các chi tiết rất nhỏ như dâng sớ, quỳ hương, xin keo, lập hồng thệ, biết cách thức lập đàn cơ, cách trấn đàn bằng tịnh thủy, v.v...
Khi nói về nghi lễ Cao Đài, cách lấy dấu tam quy trên trán (quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng), Victor L. Oliver viết: "Each participant makes a commitment of self to Cao Dai, His Creation, and to Humanity." (p. 12). Như vậy, Oliver hiểu rằng: (1) Phật là Thượng đế Cao Đài; (2) Pháp là sự sáng tạo của Thượng đế; (3) Tăng là con người, là nhân loại.
Là người nước ngoài, dù làm việc cẩn thận và nghiêm túc thì thỉnh thoảng Victor L. Oliver cũng khó tránh khỏi một ít sai sót nho nhỏ. Chẳng hạn:
1. "the Vietnamese poet, Lý Thái Bạch" (nhà thơ Việt Nam, Lý Thái Bạch, p. 10). Lẽ ra phải viết là the Chinese poet (nhà thơ Trung Quốc) hay the Tang poet (thi sĩ đời Đường).
2. "vegetarian practice to six days a month (chay sóc)" (p. 11). Lẽ ra phải viết là lục trai hay ăn chay tháng sáu ngày.
3. Về thời thơ ấu của tiền bối Ngô Văn Chiêu, Oliver viết: "At the age of six he went to live with his married sister at Mỹ Tho" (Lúc sáu tuổi, ông tới sống với người chị đã có chồng ở Mỹ Tho, p. 33). Lẽ ra phải viết là his fathers married sister mới đúng là "người cô".
4. Về nhạc lễ Cao Đài, Oliver hiểu đúng khi viết: "Nhạc là một phần cần thiết để đảm bảo cho tất cả nghi lễ của đạo Cao Đài được trọn vẹn. Nhạc truyền thống Việt Nam tạo thành nền tảng cho nhạc lễ Cao Đài." "Music is an integral part of all Caodai rituals. Vietnamese traditonal styles form the basis for the Caodai ritual music." (p.72) Thế nhưng ông lại ngộ nhận khi viết tiếp sau đó: "Thoạt kỳ thuỷ, kiểu mẫu nhạc lễ Cao Đài xuất phát từ ba nguồn: từ ông Lịch, một môn đồ Minh Sư, ông Vương Quan Kỳ là người đã học được nhạc từ Minh Lý và từ Ngô Văn Chiêu, và từ những chỉ dạy trực tiếp từ Cao Đài thông qua đàn cơ." "Originally, Caodai musical patterns came from three sources, through Mr. Lịch, a Minh Sư adept, Mr. Vương Quan Kỳ who had learned musical scores from the Minh Lý and Ngô Văn Chiêu, and from direct instructions from Caodai via the seance." (p. 72)
Lẽ ra nói về nhạc lễ Cao Đài thì Oliver không nên quên nhạc tài tử Nam Kỳ và những người như các tiền bối Cao Quỳnh Diêu, Cao Hoài Sang, Phạm Công Tắc...
Bỏ qua những lỗi nói trên, khi xét về tổng thể quyển Caodai spiritism có thể nói rằng Oliver đã cố gắng trình bày đúng đắn về đạo Cao Đài. Tuy thế, trước khi vào sách, ông cũng thận trọng viết rằng: "… tôi biết là quan điểm của công trình nghiên cứu này sẽ không làm hài lòng tất cả những bạn bè Cao Đài của tôi. Tuy nhiên, đầy hy vọng là quyển sách quả thực đã hoàn thành lời hứa của tôi với các bạn ấy rằng tôi sẽ vẽ lên một chân diện mục của đạo Cao Đài." "Finally, I know that the perspective of this study will not please all my Caodai friends. Hopefully, however, it does fulfill my promise to them to portray a true picture of Caodaism." (Acknowledge-ments, không ghi số trang)
Victor L. Oliver đã dành nhiều thiện cảm đối với nền Đạo. Đơn cử một trường hợp điển hình, đó là quan điểm của ông về số tín đồ Cao Đài (pp. 41-42). Xưa nay, khi nêu con số tín đồ Cao Đài, các tác giả thường không nhất trí với nhau, đôi khi có người còn dựa vào số tín đồ do một chức sắc công bố để mà lên tiếng công kích đạo Cao Đài. Thử nêu vài số liệu:
Năm 1926: theo Nguyễn Văn Tâm, Nguyễn Văn Tâm, Caodaĩsme et Hòa Hảo. Extract de lEducation, 14 (January/February 1940). Sai Gon: Nguyễn Văn Của. trong sáu tháng có khoảng 30.000 người nhập môn; đến tháng 10, có 50.000 người.
Năm 1927: theo Louis Marty, Giám đốc Chánh trị sự vụ kiêm Chánh Mật thám Đông Dương, Dẫn theo Jayne Susan Werner, The Cao Dai: the politics of a Vietnamese syncretic religious movement. Cornell University, a thesis for the degree of Ph.D., 1976. tín đồ Cao Đài là 100.000 người.
Năm 1928: Theo Maurice Monribot, khoảng 200.000 tín đồ; Theo Maurice Monribot, La Presse Indochinoise, dẫn trong R. B. Smith, "An introduction to Caodaism", BSOAS: Bulletin of the School of Oriental and African Studies. University of London, Vol. XXXIII, 1970. Part 2: "I. Origins and early history", p. 341. theo báo Lopinion, số tín đồ là 700.000 người; Theo Lopinion, dẫn trong R. B. Smith, p. 341. theo tiền bối Lê Văn Trung, có trên 1.000.000 tín đồ. Dẫn trong V. L. Oliver, p. 41.
Năm 1930: Theo Louis Marty, có hàng vạn tín đồ; Dẫn trong Jayne Susan Werner, p. 5. theo Gustave Meillon, có khoảng 500.000 tín đồ; Gustave Meillon trong Les messages spirites, dẫn theo V. L. Oliver, pp. 41-42. theo Ellen J. Hammer, có trên 1.000.000 tín đồ. Ellen J. Hammer, The struggle for Indochina. Stanford: Stanford University Press, 1954, tr. 79, dẫn trong V. L. Oliver, p. 41.
Năm 1931: Theo Nguyễn Trần Huân, khoảng 500.000 tín đồ. Nguyễn Trần Huân, "Histoire dune secte religieuse au Vietnam: le Caodaĩsme", Revue de Synthèse, 3 (11-12.1958), p. 273. Dẫn trong V. L. Oliver, p. 41.
Năm 1932: Theo G. Abadie, trên 1.000.000 tín đồ. Dẫn trong V. L. Oliver, p. 42.
Tạm dừng các số liệu ở năm 1932. Có thể thấy rõ từ 1926 đến 1932, chẳng ai nói giống ai. Dường như người ủng hộ Cao Đài thì muốn nâng con số cho cao lên; ai chống Cao Đài thì cố ý kéo con số thấp xuống. Lý giải vấn đề này, Victor L. Oliver viết rành mạch như sau:
"Về sức mạnh thực sự của đạo Cao Đài biểu hiện qua số tín đồ từ năm 1925 đến 1932, sự bất đồng ý kiến dường như cho thấy rõ rằng ở một số người đã ngại ngần không muốn thừa nhận sự thành công của đạo Cao Đài. Về mặt khác, những con số phóng đại của những người khác lại gợi cho thấy một tư thế phòng thủ khi đối diện với sự công kích nền Đạo. Những số ước lượng được thổi phồng này là một nỗ lực nhằm phô trương quá mức sự thành công của Đạo và nhằm tạo ra trước công chúng một hình ảnh về Đạo tốt đẹp hơn. Tác giả [Oliver] tin rằng con số tín đồ Cao Đài (người lớn và trẻ em) vào năm 1930 dè dặt ước lượng là 500.000 người. Trong bất kỳ trường hợp nào, ngay cả với con số ước lượng khiêm tốn nhất, thì sự thành công mau lẹ của Cao Đài trong những năm đầu tiên là có ý nghĩa." "The divergence of opinion on the actual numerical strength of the Caodai from 1925-1932 seems to indicate reluctance, on the part of some, to admit the success of Caodaism. On the other hand, extravagant claims by others suggests a defensive posture in the face of criticism. These inflated estimates were an attempt to over-exaggerate the movements success and to improve the image of the religion for the public. The author believes a conservative estimate of Caodai membership (adults and children) in 1930 is 500,000. In any case, even in terms of the most modest estimate, the rapid growth in the early years is significant." (p. 42)
Thái độ đó của Oliver cho thấy ông đã cảm thông được tâm cảnh của người xưa. Tấm lòng của ông đối với tiền bối Cao Đài rất đáng quý.
°
Ở các trang 20, 22, 23 Victor L. Oliver cho rằng đạo Cao Đài chịu ảnh hưởng của ba nền văn hóa: văn hóa Trung Quốc; văn hóa Ấn Độ, và văn hóa Pháp. Ông cũng không quên nói rằng sự ra đời của đạo Cao Đài còn do ảnh hưởng của bối cảnh văn hóa Việt Nam vào đầu thế kỷ 20. Theo ông, có năm ảnh hưởng tác động:
1. Tinh thần tổng hợp tôn giáo (religious syncretism).
Nông dân Việt Nam không thấy khó khăn gì khi chấp nhận Tam giáo (Thích, Lão, Nho) cùng với tín ngưỡng bản địa Việt Nam. Các tín ngưỡng này không hề loại bỏ lẫn nhau. Ngược lại, các tín ngưỡng này có tính tổng hợp, phụ giúp nhau, và vay muợn lẫn nhau về nghi lễ, giáo lý. "The peasants in both China and Vietnam found little difficulty accepting a synthesis of the three Asian religions: Buddhism, Taoism, and Confucianism, with their indigenous religious beliefs. None of these religions were mutually exclusive. On the contrary, they tended to be syncretic, adding and adapting their rituals and teachings to other religions." (p. 24)
"Người ta nói rằng tâm hồn hay tâm linh người Việt được óc tổng hợp Tam giáo chủ sử. Về xã hội, người Việt Nam thường ứng xử theo Nho. Về quan điểm tu hành, người Việt Nam thường theo Phật, trong lúc về mặt thực tiễn, người Việt Nam lại biểu hiện theo Lão."
"Người Việt Nam không quen và không thể chấp nhận một giáo điều nào cho rằng chỉ có một tôn giáo duy nhất thủ đắc được chân lý."
"(…) Trong hai mươi lăm năm đầu thế kỷ 20, có một sự bất ổn trong các tôn giáo lớn ở Việt Nam. Sự bất ổn này không phải là hiện tượng đột biến mà nó là một hậu quả tất yếu của tình trạng suy thoái và kiệt quệ." "The Vietnamese soul or spirit often is said to be dominated by a syntheses of the three great religions (…). Socially, the Vietnamese reactions are generally Confucian. From the religious point of view they are generally Buddhist; whereas from the pragmatic side, the manifestations of the Vietnamese spirit (non-regulated characteristics) are Taoistic (…).
"The teaching that one religion exclusively owns the truth is a foreign and generally unacceptable concept to the Vietnamese."
"(…) In the first twenty-five years of the twentieth century there was a malaise among the major Vietnamese religions. It was not a sudden phenonmenon but the inevitable consequence of deterioration and exhaustion." (p. 25)
2. Lòng yêu nước chống thực dân (anti-colonial expression).
"Vào những năm cuối thế kỷ 19, lòng yêu nước chống Pháp, ủng hộ các hoạt động giành độc lập bắt đầu diễn ra ở Việt Nam. Tôn giáo có tầm quan trọng chủ yếu trong những hoạt động chống thực dân." "In the late 1800s, patriotic expressions of anti-French, pro-independence activity began to occur in Vietnam. Religion was of major importance in these anti-colonial expressions." (p. 26)
Trong những năm 1880-1930, đối với giới tu sĩ và cư sĩ người Việt, việc tham gia các tôn giáo để nổi dậy chống thực dân là việc bình thường. "To be intimately involved in the politics of religion by participating in patriotic uprisings and anti-colonial expression was commonplace activity for some Vietnamese clergy and laity during the period 1880-1930." (p. 26)
3. Các hội kín (secret societies).
"Cùng thời kỳ những năm 1880-1930 lại cho thấy xuất hiện nhiều hội kín. Các hội kín này có liên quan tới những nỗ lực nhằm đánh đuổi giặc Pháp ra khỏi Việt Nam." "This same period saw the appearance of a number of secret societies. These societies were involved in attempts to oust the French from Vietnam." (p. 26)
"Sau khi đạo Cao Đài phát triển thành một tổ chức mạnh mẽ, có đông đảo quần chúng gia nhập, thì đạo Cao Đài trở thành mục tiêu công kích của những người chỉ trích, cho rằng đạo Cao Đài là một hội kín, chống Pháp, có tinh thần quốc gia mạnh mẽ, và ẩn mình bằng cách đội lốt tôn giáo." "After Caodaism developed into a strong organization with a large following among the masses, it became the target of attacks from various critics who claimed that it was a secret society, anti-French, strongly nationalistic, and hiding under the guise of a religion." (p. 27)
4. Các chi đạo Minh (the Minh organizations).
Năm chi Minh Sư, Minh Đường, Minh Thiện, Minh Lý và Minh Tân có những tính chất như nhau: (1) đều là tổ chức tôn giáo; (2) đều là tổ chức có tính thông linh (spiritistic); (3) đều có tính tổng hợp trong đức tin giáo lý và thực hành nghi lễ; (4) đều có mối liên hệ với đạo Cao Đài, trước hoặc sau khi Đạo ra đời. "These five groups shared certain characteristics. First, they were primarily religious organizations. Second, they were spiritistic organizations. Third, they were syncretistic in their doctrinal beliefs and ritual practices. Fourth, they all had some type of relationship to Caodaism, either prior or subsequent to its emergence in South Vietnam." (p. 28)
5. Sự chú trọng đến thông linh học (emphasis on spiritism).
Cơ bút do truyền thống Á Đông (Việt Nam và Trung Quốc). Xây bàn do sách vở châu Âu. (p. 29)
°
Victor L. Oliver cũng đồng ý với các nhà nghiên cứu rằng đạo Cao Đài là tôn giáo tổng hợp (p. 1). Tính tổng hợp của đạo Cao Đài thể hiện trong: cơ cấu tổ chức, triết lý, giáo lý, nghi lễ. Sự tổng hợp các yếu tố lấy từ các tôn giáo khác được thể hiện ở đạo Cao Đài là: đời sống ly gia của chức sắc (priestly celibacy); ăn chay; cầu cơ; thờ cúng tổ tiên; cầu siêu cho người chết; lòng nhiệt thành truyền giáo; các thời khóa tu tập thiền định.
Nhận định về các phái Cao Đài, Oliver viết: "Sự phát triển các phái Cao Đài vừa trợ giúp vừa cản trở nền Đạo. Một số tín đồ Cao Đài cho rằng sự bất đồng và phân rẽ trong đạo Cao Đài là không tránh khỏi, vì đã do Thiên định; dù người ta có chấp nhận luận điệu này hay không, thì cũng chẳng quan trọng. Vấn đề thật sự là những hậu quả của phái đối với đạo Cao Đài." "The development of Caodai sectarianism has aided and hindered the religion. Whether or not one accepts the claim of of some Caodaists that schism and division in Caodaism were inevitable because of the foreordination of the Creator is not of great import. The real issue involves the results of sectarianism on the religion." (p. 115)
Oliver nhìn thấy hai phương diện thuận lợi và bất lợi trong quá trình phân hóa ra các phái Cao Đài:
1. Thuận lợi
"Sự hình thành các phái mới dường như đã trợ giúp cho Đạo. Các bất đồng ý kiến đã buộc tạo ra các phái mới và các tổ chức khác. Các phái và tổ chức này lần lượt đưa đến sự mở rộng việc truyền giáo, và kết quả là có thêm nhiều tín đồ mới. Trong hai hay ba thập niên qua đạo Cao Đài đã trở nên một lực lượng xã hội và tôn giáo quan trọng ở Việt Nam." "Caodaism seems to have been helped by the formation of new sects committed to fresh interpretation inasmuch as such schism forced the creation of other new sects and organizations. These, in turn, let to expanded proselytism, and the result has been that in the process many new converts were gained. Caodaism has moved in the past two or three decades to become a major religious and social force in Vietnam." (p. 115)
"Hơn nữa, sự xuất hiện của các phái và tổ chức Cao Đài mới chắc chắn đã giúp phát triển nền tảng triết học của Đạo. Những người Việt Nam không muốn theo sự độc đoán của Tây Ninh đã có được sự lựa chọn để lên tiếng trong các sách vở, hội nghị. Đối với người đã nhập môn hay chưa nhập môn Cao Đài thì Tây Ninh không còn là một lựa chọn duy nhất có sẵn; [vì] còn có sự thu hút của Truyền giáo Cao Đài ở Đà Nẵng với quan điểm quân bình hơn, hay của Chiếu Minh Tam Thanh với sự chú trọng về nội tu." "Moreover, the appearance of new Caodai sects and organizations has certainly aided in the development within the philosophical base of the religion; books and pamphlets have been written, and conferences have been held in which alternatives to interested Vietnamese who were not attracted to the authoritarianism of Tây Ninh were articulated. No longer is authoritarian Tây Ninh the only option available to persons both already within Caodaism or to those yet to be converted; there is also the attraction of the more balanced perspective of the Danang sect, or the self-cultivation emphasis of the Chieu Minh tam Thanh movement." (p. 115)
2. Bất lợi
"Trên phương diện khác, sự phát triển các phái Cao Đài cũng là lực lượng làm suy yếu Đạo. Nó tạo ra nhiều phái lớn, nhỏ (trên năm mươi). Nhiều phái không thể tồn tại vì thiếu ổn định và thiếu tín nhiệm. Điều này làm mất uy tín cho toàn Đạo, cả trong ánh mắt quần chúng lẫn trong tâm tưởng của người tín đồ Cao Đài. Đi cùng với sự phân chi rẽ phái là sự sái chân truyền, làm nảy sinh lòng nghi kỵ và tình cảm ghẻ lạnh giữa các phái với nhau. Khi mà người Cao Đài cần một mặt trận thống nhất để gây được ảnh hưởng (…) thì họ lại chia rẽ. Sự bất đồng quan điểm làm cho Tây Ninh mất đi những con người nòng cốt, những sự đấu đá tương tàn phát triển vì thiếu đoàn kết và thiếu hòa hiệp giữa các đàn anh lãnh đạo." "On the other hand, Caodai sectarian development also was a debilitating force. It produced a multiplicity of major and minor sects (over fifty), many of them were unable to survive because of instability and lack of credibility. This reflected on the movement as a whole – both in the public eye and in the minds of those in the Caodai communities. With sectarianism came heresy, and with it the troublesome effects of inter-sectarian suspicion and estrangement. When the Caodai needed a united front to exert their influence (…), they were divided. Schism caused the Tây Ninh organization to lose many key men, internecine battles developed because of the lack of unity and accord among the leaders." (p. 115)
3. Về sự thống nhất các phái
"Trên lập trường tôn giáo, một tôn giáo Cao Đài thống nhất tạo ra những cơ hội để phát triển những chương trình ấp ủ từ lâu mà hiện vẫn còn là mộng hơn là hiện thực..." "From a religious standpoint, a united religion offers Caodaism the best opportunity to develop longstanding programs that remain dreams rather than realities …" (p. 116) "... sự thống nhất sẽ tạo cơ hội để bổ nhiệm vào các vị trí trọng yếu những nhân sự được đào tạo, chọn lọc và kinh nghiệm; những vị trí này từ nhiều năm bị bỏ trống vì thiếu những con người xứng đáng. Sự thống nhất về tổ chức sẽ giảm thiểu tối đa các vấn đề quản trị và tài chánh của Đạo. Sẽ có cơ hội để sửa chữa những thái độ sai lầm, những nghi kỵ, và những lời lẽ cay đắng của những năm xưa.
"Tuy nhiên hoàn cảnh thực tại cho thấy dù thống nhất là có lợi, thống nhất sẽ không xảy ra trong một tương lai khả dĩ đoán trước." "… unification would give opportunity to appoint trained, chosen, and experienced officials to vital positions that have been vacant for years because of the lack of qualified personnel. Organizational unification would minimize fiscal and management problems. There would be opportunity to rectify the mistaken attitudes, suspicions, and bitter words of previous years.
"But the realities of the present situation indicate that reunification, though advantageous, will not occur in the foreseeable future." (p. 116)
[ . . .]
Viết về Cơ quan Phổ thông Giáo lý Oliver dành ra bốn trang trong tổng số chín trang của chương Năm: Attempts at reunification (Những nỗ lực thống nhất các phái). Oliver viết rằng "… mục tiêu đầu tiên của Cơ quan là kết hợp những người Cao Đài có năng lực hiến mình cho việc nghiên cứu tôn giáo và triết lý." "... their first goal was to gather qualified Caodaists who would devote themselves to the study of religion and philosophy." (p. 108)
Trước đó, khi nói về quan niệm Phật mẫu trong đạo Cao Đài (p. 8), Victor L. Oliver cũng nhắc đến Cơ quan Phổ thông Giáo lý, và ông cho rằng [so với các cộng đồng Cao Đài khác] thì nhân viên Cơ quan có nhiều tính triết lý hơn (the more philosophical Caodaists).
[ . . .]
°
Mở đầu quyển Caodai spiritism, Victor L. Oliver nhắc đến Herbert Blumer. Trong một tác phẩm in năm 1951, Blumer định nghĩa rằng một phong trào xã hội là một việc làm táo bạo mang tính tập thể nhằm thiết lập cho đời sống một trật tự mới. Victor L. Oliver cho rằng lời nói của Blumer rất thích hợp để miêu tả đạo Cao Đài. "Herbert Blumer defines a social movement as a collective enterprise to establish a new order of life (…). This is an apt description of Caodaism." (p. 1)
Với những dòng kết thúc quyển Caodai spiritism, Oliver viết: "Về mặt lịch sử, đạo Cao Đài có một vai trò năng động và ý nghĩa trong các phạm vi tôn giáo, xã hội, chính trị Việt Nam. (...) Tuy nhiên, là một phong trào tôn giáo-xã hội Việt Nam mang tính bản địa và độc đáo, đạo Cao Đài tiêu biểu cho một kỷ nguyên sôi động trong lịch sử Việt Nam: [Đạo Cao Đài là] một kỷ nguyên và một phong trào cần được nghiên cứu và không được bỏ quên." "Historically, Caodaism has played an active and significant role in Vietnamese religious, societal, and political spheres. (…) Nevertheless, as a unique, indigeneous, Vietnamese socio-religious movement Caodaism is representative of an exciting era in Vietnamese history: An era and a movement to be studied and not forgotten." (p. 117)
Nhập đề và kết luận của Victor L. Oliver chắc sẽ làm nhiều người Cao Đài suy nghĩ. Do hoàn cảnh lịch sử nền Đạo gắn chặt với lịch sử dân tộc Việt Nam, Oliver cũng như người sau ông là Jayne Susan Werner, họ đều thấy nổi cộm lên ở tôn giáo Cao Đài khía cạnh mà Werner gọi là "phong trào chính trị-xã hội" (socio-political movement) còn Oliver gọi là "phong trào tôn giáo-xã hội" (socio-religious movement). Cho tới nay dường như vẫn chưa có tác giả và tác phẩm nào ở nước ngoài biết nhấn mạnh đúng mức và đúng đắn các khía cạnh triết lý và giáo lý của Cao Đài. Nếu coi đó là chỗ thiếu sót hiện nay của Oliver cũng như các nhà nghiên cứu quốc tế khác, thì càng không thể quên lời nói của Raphael B. Smith rằng: "Trong một chừng mức nào đó, chính người đạo Cao Đài phải chịu trách nhiệm về việc người phương Tây thiếu hiểu biết đạo Cao Đài." "To some extent Western ignorance about Caodaism is the responsibility of the Caodaists themselves." R. B. Smith, "An introduction to Caodaism", BSOAS: Bulletin of the School of Oriental and African Studies. University of London, Vol. XXXIII, 1970. Part 2: "I. Origins and early history", p. 335.
____________