Những liên kết dưới đây có thể hữu ích với bạn.
-
Suy ngẫm mùa tu Hạ Chí
-
Kinh Cầu Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp ( Ki-Tô giáo) Lạy rất Thánh đồng trinh Maria. Mẹ đã vui lòng nhận ...
-
Một năm có bốn mùa Xuân Hạ Thu Đông. Có 8 tiết : Lập Xuân, Xuân Phân, Lập Hè, ...
-
Mùa tu Thu phân năm Mậu Tý, chúng ta được hướng dẫn về “Rèn tâm vô niệm”. Ngày 19.9.2008. - Vô niệm ...
-
Đôi khi tôi tự hỏi: điều gì đã làm nên sự sống của tôi? Có phải do công cha nghĩa mẹ ...
-
Vì "mới ra lò" sau năm 2000 nên tôi chắc là ít người đã biết đến SQ và SQ cũng ...
-
Bài đã được xuất bản.: 21/08/2010 06:00 GMT+7 Mùa Vu Lan lại về! Cái lạnh buốt giá của mùa đông như ...
-
Quan niệm và biểu tượng về Thượng Đế trong Đạo Đức Kinh 1. Giới thiệu. Khi qua ải Hàm Cốc, Đức Lão ...
-
Trí và Thức là hai lãnh vực mà có nhiều người học đạo chưa phân biệt được rõ ràng. Thực ...
-
Xin trích một đoạn Luật Hiệp Thiên Đài trong Ngọc Đế Chơn Truyền-1935: “Nói tóm tắt là, cơ bút để cầu ...
-
Ngài Minh Thiện sinh tháng 8-1897 (năm Đinh Dậu) trong một gia đình đạo đức Nho giáo tại tỉnh Long ...
-
Thời đại ngày nay, sự phân hóa tư tưởng loài người đã cùng cực; lòng tự tôn ngã mạn khiến ...
Thện Chí
NHỮNG DẤU MÓC LICH SỬ THỜI KHAI ĐẠO CAO ĐÀI
NHỮNG DẤU MÓC LICH SỬ THỜI KHAI ĐẠO CAO ĐÀI
Samedi 18 Septembre 1926
13 tháng 8 năm Bính Dần
Ngọc-Hoàng Thượng-Ðế Viết Cao-Ðài
Tiên Ông Ðại Bồ-Tát Ma-Ha-Tát
Giáo Ðạo Nam Phương
Các con, Thầy đã lập thành Thánh-Thất; nơi ấy là nhà chung của các con; biết à.
Thầy lại quy Tam-Giáo lập thành Tân-Luật, trong rằm tháng mười có đại-hội cả Tam-Giáo nơi Thánh-Thất. Các con hay à!
Sự tế tự sửa theo "Tam-Kỳ Phổ-Ðộ" cũng nơi ấy mà xuất hiện ra; rõ à!
Từ đây trong nước Nam duy có một Ðạo chơn-thật là Ðạo Thầy đã đến lập cho các con, gọi là "Quốc-Ðạo", hiểu à!
* * *
Sắp xếp tổ chức cuộc lễVề đối ngoại, Đức Chí Tôn giao nhiệm vụ cho Ngài Thượng Trung Nhựt lập danh sách mời quan khách, bao gồm Toàn Quyền Đông Dương, Thống Đốc Nam Kỳ, nhiều công chức, giới thượng lưu trí thức, thương gia v.v.. Đồng thời mở cửa rộng cho dân chúng tự do đến tham dự, tất cả đều được Ơn Trên giáng dạy từng chi tiết. - Tiếp trong đàn hôm ấy, Thầy dạy kỹ về việc tổ chức và phân công nhân sự cụ thể vào bốn công tác quan trọng là: Lễ, Khách, Thâu, Xuất: “Lễ Thánh Thất chia ra làm: Lễ, Khách, Xuất, Thâu, vậy thì Thầy nói về Lễ trước:
* * *
Khai mạc Đại Lễ Khai Minh Đại Đạo tại Từ Lâm Tự (Gò Kén, Tây Ninh) Rằm Tháng 10 năm Bính Dần (1926),
Nhìn lại tổng quát, công cuộc khai sáng nền Đạo Tam Kỳ có thể tóm tắt qua các giai đoạn:
- Cuối năm Canh Thân (1920), Đức Cao Đài độ dẫn Ngài Ngô Văn Chiêu (Nhánh Một) làm đệ tử.
Đến năm Giáp Tý (1924), Ngài Ngô về Sài Gòn.
- Cuối năm Ất Sửu (1925), Đức Cao Đài thâu quý Ngài Nhánh Hai tại Sài Gòn làm đệ tử; sau đó phối hợp hai nhánh.
- Cuối năm Bính Dần (1926), Khai Minh Đại Đạo. Như vậy, tính theo thời gian đến lễ Khai Minh đối với Nhánh Một trải qua 6 năm; đối với Nhánh Hai chỉ qua một năm. Nhưng về mặt nhân sự, Nhánh Một chủ yếu chỉ có một vị, với Nhánh Hai gồm nhiều vị nòng cốt cùng đồng tâm hợp sức.
* * *
Cuộc Đại Lễ Khai Minh Đại Đạo tại Thánh Thất Gò Kén (Tây Ninh) chính thức bắt đầu vào đêm 14 rạng rằm tháng 10 Bính Dần (1926)
. Chương trình dự kiến kéo dài trong 3 ngày theo lời dạy của Đức Chí Tôn trước đó, gồm:
- Đêm 14 rạng rằm tháng 10 (18-19.11.1926): Lễ “Lập Vị” tấn tôn chư chức sắc Hội Thánh. - Đêm rằm rạng 16 tháng 10 (19-20.11.1926): Đức Chí Tôn khởi lập Pháp Chánh Truyền
- Đêm 16 rạng 17 tháng 10 (20-21.11.1926): Đức Chí Tôn hoàn tất Pháp Chánh Truyền Nam phái và giảng dạy thêm một số việc cần yếu.
Thuở ấy, tên cuộc Lễ thường được chư Tiền Khai gọi là “Ngày Khai Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ” (Đạo Sử 1, trang 95) hoặc: “Đại Hội Khai Đạo” (Đạo Sử 2, trang 94). Sau này, để phân biệt với các ngày lễ kỷ niệm khác,
* * *
BUỔI HỌP BÀN KHAI TỊCH ĐẠO
Buổi họp bắt đầu vào khoảng 8 giờ tối, nhị vị Thượng Trung Nhựt và Ngọc Lịch Nguyệt điều động, có sự tham gia sắp xếp của Ngài Cao Quỳnh Cư. Văn bản (dự kiến) Khai Tịch Đạo được đọc lên cho mọi người nghe và góp ý. Cuối cùng, chư vị thống nhất xong nội dung bản Khai Tịch Đạo gởi cho Thống Đốc Nam Kỳ (lúc ấy là ông Le Fol). Sau buổi họp, lúc ấy gần đến nửa đêm, chư vị lập đàn tại chỗ, Thầy giáng dạy:
“Ngọc Hoàng Thượng Đế Viết Cao Đài Giáo Đạo Nam Phương. Hỉ chư môn đệ. Trung, Lịch, Trang, Thơ, Muồi, Đạt, Vân, Nhung, các con lấy tên cả môn đệ Thầy có mặt tại đây ngày nay (... ) nam và nữ, mà đem vào tờ Khai Đạo.”
,,,,,,,,,,,,[…] Chấp hành lệnh của Đức Chí Tôn, Ngài Đầu Sư Thượng Trung Nhựt đúng ngày thứ năm 07.10.1926 (01.9 Bính Dần) đã đến dinh Thống Đốc nạp Tờ Khai Tịch Đạo và được Ông Le Fol, Thống Đốc Nam Kỳ bấy giờ “ghi nhận.” Như vậy, trên thực tế, ngày Khai Tịch Đạo là 01.9 Bính Dần.
* * *
ĐÀN GIAO THỪA ẤT SỬU - BÍNH DẦN
, , , Đến đúng giờ Tý, bước qua năm mới Bính Dần, chư vị lập đàn và được Đức Cao Đài ban Thánh dụ: “Chư đệ tử nghe: Chiêu, buổi trước hứa lời truyền đạo, cứu vớt chúng sanh, nay phải y lời mà làm chủ, dìu dắt cả môn đệ Ta vào đường đạo đức đến buổi chúng nó lập thành, chẳng nên thối trút. Phải thay mặt Ta mà dạy dỗ chúng nó. Trung, Kỳ, Hoài, ba con phải lo thay mặt Chiêu mà đi độ người. Nghe và tuân theo. Bản, Sang, Giảng, Quý, lo dọn mình đạo đức đặng truyền bá cho chúng sanh. Nghe và tuân theo. Đắc, con phải hiệp một vào đây đặng giúp đỡ Trung. Nghe và tuân theo. Đức, tập cơ. Hậu, tập cơ. Sau theo mấy anh đặng độ người. Nghe và tuân theo.” ■