Những liên kết dưới đây có thể hữu ích với bạn.
Ngày Rằm tháng 2 năm Ất Mùi ( 03-4-2015) CQPTGL đã ti63 chức lễ Kỷ niệm Khánh đản Đức Thái Thượng ĐạoTổ đồng hời Kỷ niệm 50 năm thành lập Cơ Quan (1965-2015).
Đại diện Các Hội thánh, các Thánh thất, Thánh tịnh, Tôn giáo bạn, Chính quyền địa phương, các đoàn thể đã đến dự đông đảo.
Nội dung cuộc lễ, Ban tổ chức đã báo cáo hoạt động hành đạo 50 năm của Cơ Quan và Thuyết đạo đề tài "Sống đời bình dị-Sống đạo tự nhiên".Ngoài ra Giáo sư Thương Văn Thanh (HT.Truyển Gáo), Linh mục Bảo Lộc (Ban Muc Vụ LiiênTôn) , Giáo sư Thượng Phong Thanh (Trưởng Ban Thư Kỳ Tổ chức Liên Giao các Hội Thánh Cao Đài), Phó BanTôn Giáo TP.HCM đã phát biểu cảm tưởng rất nhiệt tình . . .
Thánh tịnh Ngọc Điện Huỳnh Hà tại Quận 2 TP.HCM cử hành Lễ kỷ nệm ngày thành lập lần thứ 81 vào ngày 24 tháng 6 Giáo Ngọ ( 20- 7-2014) trùng dụng Lễ Vía Đức Hiệp Thiên Đại Đế Quan Thánh Đế Quân. Đồng đạo các nơi về dự lễ rất đông đảo dưới sự chủ trì của Chức sắc lãnh đạo Hội Thánh Cao Đài Tiên Thiên
Ngày 19 - 6 - Giáp Ngọ, 15/7/2014 Cơ Quan PTGL đã cử hành lễ Kỷ niệm ngày thành đạo của Đức Bồ Tát và Tổng kết hoạt động Phòng Khám Bệnh Phước Thiện. Các phái đoàn các Hội Thánh, Thánh thất Thánh tịnh và chính quyền đoàn thể đến dự rất đông đủ, trang nghiêm.
Tổ đình Chiếu Minh Tam Thanh Vô Vi tại Cần Thơ tổ chức trọng thể Lễ Kỷ niệm ngày qui thiên của Đức Ngô vào 12 và 13-3-Giáo Ngọ (11. 12. 4 . 2014)
Kính mời xem ảnh nơi Thư viện ảnh của NCGL
Ngày 17/3/2014 Tổ chức Liên Giao các Hội Thánh & các Tổ chức Cao Đài đã khai mạc Hội nghị Liên Giao lần VII tại HT. Minh Chơn Đạo (Cà Mau) dồng thời tổ chức Hội thảo chủ đề " Vai trò nữ phái trong Đai Đạo TKPĐ)
Hội nghị có sự hiện diện của 16 đơn vị gồm các HT và các Tổ chức Cao Đài độc lập. Cuộc Hội thảo diễn ra ngày 18/3/2014, các phái đoàn Nữ phái các HT và các Tổ chức tham gia rất đông đảo với nhiều bài tham luận sâu sắc. Nhiều đại biểu Hội Phụ Nữ các tỉnh tham dự ủng hộ rất nhiệt tình.
Hội Nghị và Hội thảo được đánh giá là thành công tốt đẹp.
Kỷ niệm 40 năm thành lập, Họ đạo Trung Nghĩa tổ chức lễ Khánh thành Thánh thất vào ngày 20 tháng 11 năm Quý Tỵ (2013) tại huyện Châu Đức (Suối Nghệ) tỉnh Bà Rịa . (xem album Thư viện hình)
-
Không thầy đố mày làm nên, Công danh gặp bước chớ quên ơn thầy. Yêu kính thầy mới làm thầy, Những phường bội ...
-
Từ thuở hoang sơ của địa cầu, loài người đã trải qua nhiều nỗi hãi hùng do biến động của ...
-
Mùa Trung Nguơn tháng 7 năm Quý Tỵ 1953, tại Thánh tịnh Tam Thanh – Cao Minh Quang ở Long ...
-
Người đời thường nói: "tạo tự thì dễ, tạo tăng (con người) mới khó". Nói như thế không có nghĩa ...
-
. . .Trước kia ta nhìn mẹ nhưng lại chú tâm vào việc khác ngoài đời. Nay thì khi làm ...
-
NHO TÔNG VÀ SỨ MẠNG ĐẠI ĐẠO Đức Chí Tôn khai Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ với tôn chỉ “Tam ...
-
Nói cho cùng, Bản thể đại đồng chính là Nhân bản. Nhân bản có giá trị trường cửu và phổ ...
-
Đức Gia Tô Giáo Chủ dạy tại Thánh Thất Bàu Sen vào ngày 24-12-1971
-
“Tánh là bản thể, là căn bản của con người, viên minh thường trụ, hồn nhiên thiên lý, vốn có ...
-
“Dầu ở MINH LÝ THÁNH HỘI , dầu ở Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, dầu cư sĩ tại gia, ...
-
Mười điều tâm yếu hướng về ngày thành đạo của Đức Phật Thích Ca (08 - 10 - Canh Dần) 1/- ...
-
CƠ QUAN PHỔ THÔNG GIÁO LÝ ĐẠI ĐẠO HUỆ NHẪN 12/2006 NGŨ CHI ĐẠI ĐẠO (Năm chi Đạo họ Minh) VÀ NHỮNG LIÊN HỆ VỚI ...
"Mẹ đến trần gianđể thưởng Xuân,
Cùng con lớn nhỏ được vui mừng;
Con mừng thưởng đặng mùa Xuân đạo,
Xuân đạo lập thành đức Thánh nhân."
"Non linh đất thánh trời xuân,
Đường trần bao dấu chơn quân lạc loài;
Lộc Trời đã giữ trong tay,
Đạo Trời vun quén ngày ngày cho xinh."
Cây trên rừng, có bao nhiêu lá, Mẹ thương con kể đã nhiều hơn. Nước trên nguồn, chảy bao nhiêu giọt, hồng ân Mẹ nhiều hơn.
Audio bài thuyết minh của Thiện Chí
The Sacred statue of Cao Dai religion appeared for the first time to the first disciple was Mr. Ngo Minh Chieu in Duong Dong, Phu Quoc in 1921. Mr. Ngo directly recognized this as the revelation of God to choose an idol for the Tao. He repainted the Heavenly Eye as a very majestic left eye to worship and soon passed it on to his fellow believers. Today, the Sarced statue is the supreme statue in the entire Cao Dai religion, in the holy houses as well as in the homes of believers.
According to the Dai Dao (Great Way) teachings, these questions can only be answered within the Dharma, and moreover, these answers only make sense for humans when they transcend theory to become belief and personal action. Therefore, the Dai Dao doctrine takes humans as the central point of thought and action. As the center of thought, humans are explained their own existence to perceive their origin, current state, and ultimate aim in the world. As the center of action, humans are entrusted with their mission before all beings and guided to fulfill that noble mission. Through this focal point, the Dai Dao teaches us a path to transcendence already within the answers to the above questions of humanity. That path is called the Great Way (Đại Đạo). Hence, the Dai Dao doctrine helps us understand that humans and the Great Way are truly one.
More than 80 years ago[1], when God lowered the sacred peak for the first time in Vietnam, he laid the first brick for the Great Path of the Three Stages of Universality in this world. Since then, the Cao Dai building was established and at the same time given the mission of Tam Ky Pho Do. This third universal mission is called the Great Path mission because of God's privilege for the lower salvation that is, the last salvation before the end of a great cosmic cycle.
His Holiness Cao Đài said: "I am about to complete the regeneration of the Cao Dai , "Use the Great Dao mystic spirit to operate." The word "regeneration " refer to the circulation of the universe according to the law of the chief evil: the development process of all things is not fixed to a certain extent, but according to the cycle, like a full tide, like a crescent moon, like a full moon, like a human life.
SỨ MẠNG ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ Cách đây hơn 80 năm[1], khi Đức Thượng Đế hạ ngọn linh cơ lần đầu tiên tại Việt Nam, tức là đã đặt viên gạch đầu tiên cho Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ tại thế gian này. Từ đó tòa Cao Đài được thiết lập đồng thời được ban trao sứ mạng Tam Kỳ Phổ Độ. Sứ mạng phổ độ nhân sanh kỳ thứ ba này được mệnh danh là sứ mạng Đại Đạo do bởi đặc ân của Thượng Đế dành cho cơ cứu thế hạ nguơn tức là cơ cứu độ sau cùng trước khi kết thúc một đại chu kỳ vũ trụ.
Vào đêm lễ Phục Sinh năm nay, 07-4-2012, khi Đức Giáo hoàng Benedict XVI thắp cây nến đầu tiên tại Thánh đường Pierre, và đồng loạt hàng chục ngàn cây nến khác của “dân Chúa” thắp sáng quanh đền thánh, Ngài liền tuyên bố những lời bất hủ: “Nếu như Chúa Trời và các giá trị đạo đức, sự khác biệt giữa thiện và ác, còn nằm trong tăm tối, thì các loại khai sáng khác vốn mang lại cho chúng ta các thành quả công nghệ và kỹ thuật, lại không phải là tiến bộ mà còn gây nguy hiểm cho cả thế giới chúng ta." Thông điệp trên khiến chúng ta tự hỏi: “ Vì sao các loại khai sáng khác không khêu tỏ được các giá trị đạo đức; vì sao sự phân biệt giữa thiện và ác bị bóng tối bao trùm? Bóng tối đó là gì, do đâu mà có?”
Trong các trích đoan thánh giáo trên, cho thấy Ơn Trên dạy rõ “ BÍ PHÁP là gì,” nhưng đồng thời cũng dạy về “ Pháp môn công phu thiền định” tức là đạo pháp. Thiển nghĩ sự “ ban trao bí pháp và tiếp nhận bí pháp” hàm ý bí pháp gồm chủ thể và đối tượng tương liên bằng một động tái kín nhiệm tại tâm. Các đối tượng phải tự tạo điều kiện “ tịnh khiết” thân tâm để nhận được “ bí pháp” : “Con người biết giữ được mực độ quân bình cho chính bản thân là tâm linh phải lo trau luyện cho thanh thoát, đừng để thất tình lục dục bao vây.( Đối tượng ”trau luyện” phải chăng thực hành đạo pháp hay pháp môn) Vậy toàn bộ những gì thuộc về cơ cứu độ Kỳ Ba, Bí pháp hay Đạo pháp đều nằm trong Chánh pháp Đại Đạo. TH.CH.
According to the Dai Dao (Great Way) teachings, these questions can only be answered within the Dharma, and moreover, these answers only make sense for humans when they transcend theory to become belief and personal action. Therefore, the Dai Dao doctrine takes humans as the central point of thought and action. As the center of thought, humans are explained their own existence to perceive their origin, current state, and ultimate aim in the world. As the center of action, humans are entrusted with their mission before all beings and guided to fulfill that noble mission.
K….Khá nghe dạy : Rừng thiền nhặt thúc tiếng chuông trưa Phước gặp về Ta , buổi đã vừa . Nẽo hạnh làu soi gương Nguyệt thắm . Sân ngô rạng vẽ cánh thu đưa . Mai tàn cúc xủ đời thay đổi. Dữ tận hiền thăng khách lọc - lừa. Mùi đạo gắng giồi lòng thiện niệm. Duyên may tìm lại phẩm ngôi xưa . o0o _ Màn trời che lấp dấu trần , Đạo Thánh dắt dìu bước tục.Cuối Hạ Nguơn biết bao đời thay đổi
Ấn tượng lịch sử của Lễ Hội Yến Diêu Trì đầu tiên Theo Sử Đạo, Đêm mồng 8 tháng 8 (25-9-1925), Đức AĂÂ giáng đàn, dạy ba vị Phạm Công Tắc, Cao Quỳnh Cư, Cao Hoài Sang chuẩn bị thiết một lễ chay để cầu thỉnh Đức Diêu Trì Kim Mẫu và Cửu Vị Tiên Nương giáng lâm. Đức Phạm Hộ Pháp cho biết : “Đức Chí Tôn ra lệnh, biểu làm một cái tiệc. Ngài dạy sắp đặt cái tiệc ấy để đãi Đấng vô hình. Đãi mười người (vị) Đức Phật Mẫu và Cửu Vị Tiên Nương” (1) Đêm hôm sau, mồng 9, ba vị cầu đến Cô Đoàn Ngọc Quế (Vương Thị Lễ), hỏi thêm cho được tận tường. Đàn hôm ấy quan trọng. Cô Đoàn Ngọc Quế lần đầu tiên cho chư vị biết rằng Cô chính là Thất Nương, Chị Hớn Liên Bạch là Bát Nương, cùng trong Cửu Vị Tiên Nương hộ giá Đức Diêu Trì Kim Mẫu. Nhưng, Thất Nương vẫn chưa tiết lộ về Đức AĂÂ. Tiếp đến, Thất Nương hướng dẫn đầy đủ nghi thức hành lễ tiếp Đức Từ Tôn Diêu Trì Kim Mẫu vào đêm Trung Thu, và yêu cầu chư vị cần : Trai giới liền ba ngày trước khi hầu lễ, và phải dùng Đại ngọc cơ để cầu Đức Mẹ Diêu Trì.
Ấn tượng lịch sử của Lễ Hội Yến Diêu Trì đầu tiên Theo Sử Đạo, Đêm mồng 8 tháng 8 (25-9-1925), Đức AĂÂ giáng đàn, dạy ba vị Phạm Công Tắc, Cao Quỳnh Cư, Cao Hoài Sang chuẩn bị thiết một lễ chay để cầu thỉnh Đức Diêu Trì Kim Mẫu và Cửu Vị Tiên Nương giáng lâm. Đức Phạm Hộ Pháp cho biết : “Đức Chí Tôn ra lệnh, biểu làm một cái tiệc. Ngài dạy sắp đặt cái tiệc ấy để đãi Đấng vô hình. Đãi mười người (vị) Đức Phật Mẫu và Cửu Vị Tiên Nương” (1) Đêm hôm sau, mồng 9, ba vị cầu đến Cô Đoàn Ngọc Quế (Vương Thị Lễ), hỏi thêm cho được tận tường. Đàn hôm ấy quan trọng. Cô Đoàn Ngọc Quế lần đầu tiên cho chư vị biết rằng Cô chính là Thất Nương, Chị Hớn Liên Bạch là Bát Nương, cùng trong Cửu Vị Tiên Nương hộ giá Đức Diêu Trì Kim Mẫu. Nhưng, Thất Nương vẫn chưa tiết lộ về Đức AĂÂ. Tiếp đến, Thất Nương hướng dẫn đầy đủ nghi thức hành lễ tiếp Đức Từ Tôn Diêu Trì Kim Mẫu vào đêm Trung Thu, và yêu cầu chư vị cần : Trai giới liền ba ngày trước khi hầu lễ, và phải dùng Đại ngọc cơ để cầu Đức Mẹ Diêu Trì.
Ấn tượng lịch sử của Lễ Hội Yến Diêu Trì đầu tiên Theo Sử Đạo, Đêm mồng 8 tháng 8 (25-9-1925), Đức AĂÂ giáng đàn, dạy ba vị Phạm Công Tắc, Cao Quỳnh Cư, Cao Hoài Sang chuẩn bị thiết một lễ chay để cầu thỉnh Đức Diêu Trì Kim Mẫu và Cửu Vị Tiên Nương giáng lâm. Đức Phạm Hộ Pháp cho biết : “Đức Chí Tôn ra lệnh, biểu làm một cái tiệc. Ngài dạy sắp đặt cái tiệc ấy để đãi Đấng vô hình. Đãi mười người (vị) Đức Phật Mẫu và Cửu Vị Tiên Nương” (1) Đêm hôm sau, mồng 9, ba vị cầu đến Cô Đoàn Ngọc Quế (Vương Thị Lễ), hỏi thêm cho được tận tường. Đàn hôm ấy quan trọng. Cô Đoàn Ngọc Quế lần đầu tiên cho chư vị biết rằng Cô chính là Thất Nương, Chị Hớn Liên Bạch là Bát Nương, cùng trong Cửu Vị Tiên Nương hộ giá Đức Diêu Trì Kim Mẫu. Nhưng, Thất Nương vẫn chưa tiết lộ về Đức AĂÂ. Tiếp đến, Thất Nương hướng dẫn đầy đủ nghi thức hành lễ tiếp Đức Từ Tôn Diêu Trì Kim Mẫu vào đêm Trung Thu, và yêu cầu chư vị cần : Trai giới liền ba ngày trước khi hầu lễ, và phải dùng Đại ngọc cơ để cầu Đức Mẹ Diêu Trì.
Hằng ngày sinh họat đạo, đọc sách đạo, chúng ta thường gặp hai chữ "đại đồng", nhất là mục đích "Thế đạo đại đồng, thiên đạo giải thoát" của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.
Đối với người tín hữu Cao Đài là thế, nhưng các tôn giáo khác, các triết gia, nhiều nhà tư tưởng cũng nêu quan điểm: " tất cả tôn giáo là một", "tất cả trở về Một", " thế giới đại đồng", "toàn cầu hóa". . .
Gặp nhiều, nói nhiều rồi có lúc chúng ta in trí đó là lẽ đương nhiên, hay hơn nữa, rất dễ dàng thực hiện. Nhưng trên thực tế, bắt đầu từ đâu để tìm ra manh mối của "đại đồng"?.
Quẻ Địa Thiên Thái gồm nội quái là Kiền và ngọai quái là Khôn, 2 quẻ đầu trong 64 quẻ Kinh Dịch. Thái có nghĩa to lớn, thông suốt, tốt đẹp, yên ổn
-Tượng quẻ cho thấy, hạ quái là Kiền, tức Dương khí của Trời hạ xuống; thượng quái là Khôn, là Đất, tức Âm khí bay lên, thể hiện sự gặp gỡ giao hòa giữa Trời Đất, hiểu rộng ra là hai khí Âm Dương giao tiếp nhau, tượng trưng sự hanh thông trong định luật thiên nhiên.
Neil Armstrong (sinh 5 tháng 8, 1930) là một phi hành gia người Mỹ, người đầu tiên đặt chân lên Mặt Trăng ngày 20 tháng 7 năm 1969, trong chuyến du hành trên tàu Apollo 11 cùng Buzz Aldrin & Michael Collins.
Khi đặt chân xuống Mặt trăng, ông đã nói một câu bất hủ: "Đây là bước chân nhỏ bé của một người, nhưng là bước tiến khổng lồ của nhân loại".( That's one small step for [a] man, one giant leap for mankind")
Thật vậy ! Kể từ khi loài người còn sống hoang dã cách đây khoảng 10.000 năm cho đến ngày đặt chân lên mặt trăng, hành tinh cách địa cầu gần 400 ngàn km, quả là bước tiến khổng lồ !
Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý
Tý thời, 30 tháng Chạp rạng mùng 01 tháng Giêng Đinh Tỵ (17-02-1977)
GIÁO TÔNG ĐẠI ĐẠO THÁI BẠCH KIM TINH, chào chư hiền đệ hiền muội. Miễn lễ, chư đệ muội đồng an tọa.
Xuân đã về trước ngõ, chư đệ muội hãy vui vẻ lên đón Chúa Xuân. Dầu có muôn vạn mùa xuân qua qua lại lại, tới tới lui lui, nhưng người khách biết thưởng xuân, thì xuân với lòng người là một, không qua không lại, không tới không lui, không thời gian ước định mà vĩnh cữu hằng tại.
"XUÂN LÀ CẢNH THIÊN THỜI ĐỊA LỢI,
CÓ NHƠN HÒA XUÂN MỚI THÀNH XUÂN" (*)
Trong bốn mùa, Xuân được đón chào, ưu đải nhất, bởi vì Xuân hơn hẳn về thiên thời địa lợi.
Thiên thời của Xuân là sự khởi đầu thế vận một năm do lý tự nhiên của đất trời phát động đức Nguyên của đạo Kiền. Nguyên là công năng sanh hóa trong vũ trụ, nhờ đó mà trời trong gió mát, hoa cỏ xinh tươi, mùa màng sung túc; việc ấm no không còn tất bật. Nghỉ ngơi tay cuốc tay cày, người người rộn rã chuẩn bị cho lễ hội đầu Xuân. Vậy là thành địa lợi.
Ôn học lời dạy của Đức Lý Giáo Tông
Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý
Tuất thời, 15-01 Giáp Dần (06-02-1974)
Bài thuyết minh giáo lý của Giáo Sĩ Huệ Ý, Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Đại Đạo.
Tháng 3-2007 (Đinh Hợi)
Trong nhiều Kinh sách Nho Giáo, từ Hoàng Cực đã được trân trọng nhắc đến. Hoàng Cực được xem như Vương đạo, chuẩn mực trị nước của những minh quân Trung Quốc thời xưa.
"Chữ tâm là chốn Cao Đài,
Không phân tả hữu là ngai Thượng Hoàng"
Quách Hiệp Long
Đó là lời dạy của đức Vạn Hạnh Thiền Sư ngày 11–5–1970 Canh Tuất tại Trúc Lâm Thiền Điện.
"Chữ Tâm là chốn Cao Đài" có nghĩa là Thượng Đế ngự ở Nội Tâm mỗi chúng sinh.
Con Người Đại Đạo phải là một Nguyên nhân; đó là người đạt đến Thượng trí tức cái Chơn tri làm chủ mọi tri thức (hạ trí) và tình thức. Kế đến, Nguyên nhân ấy thọ bẩm tinh thần đắc nhất của tâm linh (thuộc cõi Bồ đề ) để sử dụng chơn tri của thượng trí mà thi hành sứ mạng.
Như thế bản chất của người thiên ân sứ mạng là bản chất Đại Đạo, là tình bác ái bao dung tất cả khiến người sứ mạng hành động vô tư, hiệp nhất được mọi đối tượng trên từng nấc thang tiến lên lý tưởng chân thiện mỹ của loài người. Chỉ có bản chất Đại Đạo mới hóa giải được mọi đổ vỡ phân ly hận thù trong lòng nhân thế gây ra biết bao sóng gió phủ phàng cho cuộc đời.
Nghiên cứu lịch sử hay nguồn gốc các tôn giáo, người ta thường phân lọai các tôn giáo về mặt đức tin nơi Thần Thánh thành ba lọai:
_ Tôn giáo đa thần (polytheism)
_ Tôn giáo độc thần (monotheism)
_ Tôn giáo phiếm thần (pantheism)
Cách đây hơn 80 năm, Đức Thượng Đế Cao Đài thâu nhận người đệ tử đầu tiên là Ngài Ngô Minh Chiêu vào năm 1921.Tam vị Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc, Cao Hoài Sang làm lễ Vọng thiên cầu đạo đêm mùng 1 tháng 11 năm Ất Sửu (16-12-1925), Đức Thượng Đế hạ ngọn linh cơ tại Việt Nam, tức là đã đặt viên gạch đầu tiên cho Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ tại thế gian này. Từ đó, tòa Cao Đài được thiết lập đồng thời được ban trao sứ mạng Tam Kỳ Phổ Độ. Sứ mạng phổ độ nhân sanh kỳ thứ ba này được mệnh danh là sứ mạng Đại Đạo do bởi đặc ân của Thượng Đế dành cho cơ cứu thế Hạ nguơn tức là cơ cứu độ sau cùng trước khi kết thúc một đại chu kỳ vũ trụ.
Cách đây đúng 12 năm, thời điểm lịch sử của sự ra đời của Khối Liên Giao các Hôi Thánh Cao Đài. Sở dĩ nói là thời điểm lich sử vì nó đánh dấu môt bước ngoăc dẫn đến nhiều thay đổi tiến bộ trong cuôc phát triển của toàn đạo :
PHONG CÁCH THƯỞNG XUÂN CAO ĐÀI
Giáo sĩ LẬP HẠNH
Từ Đông sang Tây, từ xưa đến nay, mọi người đều tỏ ra rất trân trọng và yêu thích mùa Xuân. Bởi lẽ Xuân đem lại sức sống, sự ấm áp và tươi đẹp. Cũng vì thế, Xuân được xem là mùa đứng đầu trong bốn mùa.
" Tứ quí nhơn gian Xuân tại thủ"
Và người ta đã nghĩ ra nhiều cách đón Xuân, mừng Xuân, thưởng Xuân
Đêm Trung Thu Bàn Đào Hội Yến,
Cuộc tương phùng u hiển tình thâm;
Chứng lòng Mẹ mới giáng lâm,
Nương huyền linh điển âm thầm nhủ khuyên.
Giác ngộ phải nhớ đàng quay lại,
Bằng muội mê khổ hải trầm luân;
Con ôi! Thế lộ trông chừng,
Noi theo chánh đạo chớ dừng bến mê. . .
LỊCH SỬ THÁNH THẤT PARIS
Ghi lại lịch-sử thành-lập Thánh-Thất Cao-Đài Paris là để tưởng-nhớ đến những người tiền-phong đã không ngại khó-khăn, hy-sinh ngày giờ, công của quyết chí gầy-dựng cơ-sở đạo này. Tục-ngữ Việt-Nam có câu: ‘Ăn trái nhớ kẻ trồng cây, uống nước nhớ người đào giếng’. Thực-hiện tài-liệu sử đạo này thiết nghĩ là một việc làm hửu-ích, một bổn-phận của đoàn hậu-tấn, để bày-tỏ lòng biết ơn đối với các bậc Đạo-Trưởng và các bậc đàn anh đã kiên-trì nuôi-dưỡng cơ Đạo từ hơn mười mấy năm qua. Sau đây chúng-tôi xin ghi lại lời tường-thuật của Đạo-Tỹ Diệu-Thê :
Hôm nay, tôi xin được phép dùng nội dung “Cảm ứng luận” để trình bày phần nói về cái nghĩa cảm ứng theo Đạo giáo. Sau đó, là sự dẩn dụ lý cảm ứng qua lời dạy của Thánh nhơn và về lý cảm ứng trong hai đường lành dữ : hễ cảm lành thì ứng lành, cảm dữ thì ứng dữ. Phần tiếp theo sẽ luận đến cảm ứng theo Thích giáo và Nho giáo và sau cùng là hiệp lý tam giáo để luận cảm ứng trong phương tu “ Phản bổn huờn nguyên”.
Phần trình bày sẽ có các đề mục sau đây:
1. Nghiên cứu về ý nghĩa cảm ứng của Đạo giáo;
2. Dẩn dụ cảm ứng trong Thánh ngôn;
3. Chỉ rõ lý cảm ứng trong hai đường lành dữ;
4. Luận về cảm ứng theo Thích giáo và Nho giáo;
5. Kết luận hiệp lý tam giáo.
6. Cảm ứng trong phương tu “Phản bổn huờn nguyên”
1. * Ngọc Trì là ai?
Trong
việc hành công, miệng con người không gọi là khẩu mà gọi là Ngọc Trì
(ao ngọc). Trong miệng có hai suối nước là Ngọc Tuyền, xuất phát cam lồ
là Ngọc dịch, đây là Tiên dược của hành giả chỉ có khi thanh tịnh trong
thời thiền.
Cơ thể con người
có một cấu tạo đặc biệt, mắt của chúng ta cho được mà miệng không cho
được. Cho nên miệng là ta, ta là miệng. Ngọc Trì là chính chúng ta trên
đường tu, tuy hai mà một. Ngọc Trì lên đường tu là cách nói hình tượng
nhân cách của chủ đề CẨN NGÔN.
Đạo Trưởng Huệ
Lương có kể chuyện về thời Khai Đạo tại Thánh Thất Cầu Kho. Trong một
thời cúng, các Đấng Tiền Khai đang đọc kinh trên bửu điện thì dưới trù
phòng có tiếng cải cọ lớn tiếng. Tiền Bối Đòan Văn Bản bước ra và xuống
bếp khuyên giải "Xin chị để cho các anh lớn dâng lễ xong rồi có chuyện
gì thì nhờ phân xử". Bà tiếp tục hét "không chờ gì hết!", rồi tự nhiên
nín luôn.
Mỗi
ngày người ta thấy bà đánh một dấu phấn ở gốc cột. Đủ ba năm bà mua một
hủ tương đến gặp Ngài Đòan Văn Bản, chỉ vào hủ tương rồi chỉ ra hướng
Vũng Tàu. Ngài Đòan Văn Bản hỏi "chị muốn chúng tôi đưa chị ra Long Hải
gặp anh lớn Nguyễn Ngọc Tương phải không? Bà gật đầu.
Ngài
Đòan Văn Bản mua vé xe đò, đưa bà ra quận Đất Đỏ vào gặp Ngài Nguyễn
Ngọc Tương (lúc bấy giờ Ngài đang làm chủ quận Đất Đỏ). Sau khi nghe tự
sự Đức Nguyễn Ngọc Tương mời Ngài Đòan Văn Bản và đương sự cùng lên
cúng thời ngọ. Trước khi xã đàn Đức Nguyễn Ngọc Tương lấy nước âm
dương, cầu nguyện Ơn Trên và đưa cho bà uống, ngay tức thì bà nói ngay
"con xin cám ơn Ơn Trên tha tội, từ đây con xin cẩn ngôn, cẩn hạnh".
Chúng ta tu, miệng chúng ta phải tu theo, đó là Ngọc Trì lên đường tu.
