Những liên kết dưới đây có thể hữu ích với bạn.
Ngày Rằm tháng 2 năm Ất Mùi ( 03-4-2015) CQPTGL đã ti63 chức lễ Kỷ niệm Khánh đản Đức Thái Thượng ĐạoTổ đồng hời Kỷ niệm 50 năm thành lập Cơ Quan (1965-2015).
Đại diện Các Hội thánh, các Thánh thất, Thánh tịnh, Tôn giáo bạn, Chính quyền địa phương, các đoàn thể đã đến dự đông đảo.
Nội dung cuộc lễ, Ban tổ chức đã báo cáo hoạt động hành đạo 50 năm của Cơ Quan và Thuyết đạo đề tài "Sống đời bình dị-Sống đạo tự nhiên".Ngoài ra Giáo sư Thương Văn Thanh (HT.Truyển Gáo), Linh mục Bảo Lộc (Ban Muc Vụ LiiênTôn) , Giáo sư Thượng Phong Thanh (Trưởng Ban Thư Kỳ Tổ chức Liên Giao các Hội Thánh Cao Đài), Phó BanTôn Giáo TP.HCM đã phát biểu cảm tưởng rất nhiệt tình . . .
Thánh tịnh Ngọc Điện Huỳnh Hà tại Quận 2 TP.HCM cử hành Lễ kỷ nệm ngày thành lập lần thứ 81 vào ngày 24 tháng 6 Giáo Ngọ ( 20- 7-2014) trùng dụng Lễ Vía Đức Hiệp Thiên Đại Đế Quan Thánh Đế Quân. Đồng đạo các nơi về dự lễ rất đông đảo dưới sự chủ trì của Chức sắc lãnh đạo Hội Thánh Cao Đài Tiên Thiên
Ngày 19 - 6 - Giáp Ngọ, 15/7/2014 Cơ Quan PTGL đã cử hành lễ Kỷ niệm ngày thành đạo của Đức Bồ Tát và Tổng kết hoạt động Phòng Khám Bệnh Phước Thiện. Các phái đoàn các Hội Thánh, Thánh thất Thánh tịnh và chính quyền đoàn thể đến dự rất đông đủ, trang nghiêm.
Tổ đình Chiếu Minh Tam Thanh Vô Vi tại Cần Thơ tổ chức trọng thể Lễ Kỷ niệm ngày qui thiên của Đức Ngô vào 12 và 13-3-Giáo Ngọ (11. 12. 4 . 2014)
Kính mời xem ảnh nơi Thư viện ảnh của NCGL
Ngày 17/3/2014 Tổ chức Liên Giao các Hội Thánh & các Tổ chức Cao Đài đã khai mạc Hội nghị Liên Giao lần VII tại HT. Minh Chơn Đạo (Cà Mau) dồng thời tổ chức Hội thảo chủ đề " Vai trò nữ phái trong Đai Đạo TKPĐ)
Hội nghị có sự hiện diện của 16 đơn vị gồm các HT và các Tổ chức Cao Đài độc lập. Cuộc Hội thảo diễn ra ngày 18/3/2014, các phái đoàn Nữ phái các HT và các Tổ chức tham gia rất đông đảo với nhiều bài tham luận sâu sắc. Nhiều đại biểu Hội Phụ Nữ các tỉnh tham dự ủng hộ rất nhiệt tình.
Hội Nghị và Hội thảo được đánh giá là thành công tốt đẹp.
Kỷ niệm 40 năm thành lập, Họ đạo Trung Nghĩa tổ chức lễ Khánh thành Thánh thất vào ngày 20 tháng 11 năm Quý Tỵ (2013) tại huyện Châu Đức (Suối Nghệ) tỉnh Bà Rịa . (xem album Thư viện hình)
-
HỘI THOẠI TỰ TRI GIẢ MINH Thời Mạt Pháp : Trước diễn biến bất nhân vô đạo, sức phá tán ...
-
Thứ Hai, 23/04/2007, 14:36 (GMT+7) Người phụ nữ Việt Nam đầu tiên viết tiểu thuyết bằng Quốc ngữ. Guinness Việt Nam ...
-
Sứ mạng ĐĐTKPĐ là sứ mạng cứu độ toàn diện cho thế giới nhân lọai, nghĩa là chủ trương vừa ...
-
Nhân dịp sắp đến ngày giỗ của Ngài Minh Thiện, Nguyên Tổng Lý Minh Lý Thánh Hội (Minh Lý ...
-
Bài thuyết minh giáo lý của Giáo Sĩ Huệ Ý, Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Đại Đạo. Tháng 3-2007 (Đinh ...
-
Điểm tô Đạo Trời về mặt hình tướng là làm sáng danh Thầy, danh Đạo về mặt hình thức bằng ...
-
Phát hiện mới về Pétrus Trương Vĩnh Ký một lần nữa lại khẳng định tầm vóc và vai trò quan ...
-
Hôm nay, tuy là buổi thuyết đạo ngày rằm như thông lệ, nhưng đặc biệt, Rằm tháng Giêng là Lễ ...
-
“Tam Kỳ Phổ Độ là một giai đoạn quan trọng trên lịch sử diễn tiến của nhân loại trong kỳ ...
-
Nếu kể từ đêm giao thừa Bính Dần 1926 đến giao thừa Ất Mùi 2015 này thì người Cao Đài ...
-
Trong một kiếp giáng sanh xuống trần gần đây nhứt tại Bạc Liêu, Cửu Nương có tên là CAO THOẠI ...
-
Cất lên tiếng khóc chào đời, Mới hay hạt bụi thành người nhân gian. Biết xuân sinh, biết đông tàn, Làm người chỉ ...
Thanh giao day ve xuan
Nhạc và lời: TRẦN BỬU LONG
Vui hát trong câu ca là la la la. Đôi bướm vui tung tăng lượn trong muôn hoa. Đường về Đài Cao đường chung của muôn nhà. Mình cùng vang ca quên mất đường xa.
Nâng bước chân em đi đường xa xa ơi. Vang tiếng vang em ca về trao muôn nơi. Ngày này học Đạo Cao ngày sau sẽ giúp đời. Chờ bình minh lên tung cánh ngàn khơi.
Con xin cúi đầu trước tình thương bao la của Đức Mẹ kính yêu. Con xin làm giọt tình thương trong mắt Mẹ - đại dương.
Ca sĩ:Trọng Nghĩa
"Non linh đất thánh trời xuân,
Đường trần bao dấu chơn quân lạc loài;
Lộc Trời đã giữ trong tay,
Đạo Trời vun quén ngày ngày cho xinh."
The Sacred statue of Cao Dai religion appeared for the first time to the first disciple was Mr. Ngo Minh Chieu in Duong Dong, Phu Quoc in 1921. Mr. Ngo directly recognized this as the revelation of God to choose an idol for the Tao. He repainted the Heavenly Eye as a very majestic left eye to worship and soon passed it on to his fellow believers. Today, the Sarced statue is the supreme statue in the entire Cao Dai religion, in the holy houses as well as in the homes of believers.
According to the Dai Dao (Great Way) teachings, these questions can only be answered within the Dharma, and moreover, these answers only make sense for humans when they transcend theory to become belief and personal action. Therefore, the Dai Dao doctrine takes humans as the central point of thought and action. As the center of thought, humans are explained their own existence to perceive their origin, current state, and ultimate aim in the world. As the center of action, humans are entrusted with their mission before all beings and guided to fulfill that noble mission. Through this focal point, the Dai Dao teaches us a path to transcendence already within the answers to the above questions of humanity. That path is called the Great Way (Đại Đạo). Hence, the Dai Dao doctrine helps us understand that humans and the Great Way are truly one.
More than 80 years ago[1], when God lowered the sacred peak for the first time in Vietnam, he laid the first brick for the Great Path of the Three Stages of Universality in this world. Since then, the Cao Dai building was established and at the same time given the mission of Tam Ky Pho Do. This third universal mission is called the Great Path mission because of God's privilege for the lower salvation that is, the last salvation before the end of a great cosmic cycle.
His Holiness Cao Đài said: "I am about to complete the regeneration of the Cao Dai , "Use the Great Dao mystic spirit to operate." The word "regeneration " refer to the circulation of the universe according to the law of the chief evil: the development process of all things is not fixed to a certain extent, but according to the cycle, like a full tide, like a crescent moon, like a full moon, like a human life.
SỨ MẠNG ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ Cách đây hơn 80 năm[1], khi Đức Thượng Đế hạ ngọn linh cơ lần đầu tiên tại Việt Nam, tức là đã đặt viên gạch đầu tiên cho Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ tại thế gian này. Từ đó tòa Cao Đài được thiết lập đồng thời được ban trao sứ mạng Tam Kỳ Phổ Độ. Sứ mạng phổ độ nhân sanh kỳ thứ ba này được mệnh danh là sứ mạng Đại Đạo do bởi đặc ân của Thượng Đế dành cho cơ cứu thế hạ nguơn tức là cơ cứu độ sau cùng trước khi kết thúc một đại chu kỳ vũ trụ.
Vào đêm lễ Phục Sinh năm nay, 07-4-2012, khi Đức Giáo hoàng Benedict XVI thắp cây nến đầu tiên tại Thánh đường Pierre, và đồng loạt hàng chục ngàn cây nến khác của “dân Chúa” thắp sáng quanh đền thánh, Ngài liền tuyên bố những lời bất hủ: “Nếu như Chúa Trời và các giá trị đạo đức, sự khác biệt giữa thiện và ác, còn nằm trong tăm tối, thì các loại khai sáng khác vốn mang lại cho chúng ta các thành quả công nghệ và kỹ thuật, lại không phải là tiến bộ mà còn gây nguy hiểm cho cả thế giới chúng ta." Thông điệp trên khiến chúng ta tự hỏi: “ Vì sao các loại khai sáng khác không khêu tỏ được các giá trị đạo đức; vì sao sự phân biệt giữa thiện và ác bị bóng tối bao trùm? Bóng tối đó là gì, do đâu mà có?”
Trong các trích đoan thánh giáo trên, cho thấy Ơn Trên dạy rõ “ BÍ PHÁP là gì,” nhưng đồng thời cũng dạy về “ Pháp môn công phu thiền định” tức là đạo pháp. Thiển nghĩ sự “ ban trao bí pháp và tiếp nhận bí pháp” hàm ý bí pháp gồm chủ thể và đối tượng tương liên bằng một động tái kín nhiệm tại tâm. Các đối tượng phải tự tạo điều kiện “ tịnh khiết” thân tâm để nhận được “ bí pháp” : “Con người biết giữ được mực độ quân bình cho chính bản thân là tâm linh phải lo trau luyện cho thanh thoát, đừng để thất tình lục dục bao vây.( Đối tượng ”trau luyện” phải chăng thực hành đạo pháp hay pháp môn) Vậy toàn bộ những gì thuộc về cơ cứu độ Kỳ Ba, Bí pháp hay Đạo pháp đều nằm trong Chánh pháp Đại Đạo. TH.CH.
According to the Dai Dao (Great Way) teachings, these questions can only be answered within the Dharma, and moreover, these answers only make sense for humans when they transcend theory to become belief and personal action. Therefore, the Dai Dao doctrine takes humans as the central point of thought and action. As the center of thought, humans are explained their own existence to perceive their origin, current state, and ultimate aim in the world. As the center of action, humans are entrusted with their mission before all beings and guided to fulfill that noble mission.
K….Khá nghe dạy : Rừng thiền nhặt thúc tiếng chuông trưa Phước gặp về Ta , buổi đã vừa . Nẽo hạnh làu soi gương Nguyệt thắm . Sân ngô rạng vẽ cánh thu đưa . Mai tàn cúc xủ đời thay đổi. Dữ tận hiền thăng khách lọc - lừa. Mùi đạo gắng giồi lòng thiện niệm. Duyên may tìm lại phẩm ngôi xưa . o0o _ Màn trời che lấp dấu trần , Đạo Thánh dắt dìu bước tục.Cuối Hạ Nguơn biết bao đời thay đổi
Ấn tượng lịch sử của Lễ Hội Yến Diêu Trì đầu tiên Theo Sử Đạo, Đêm mồng 8 tháng 8 (25-9-1925), Đức AĂÂ giáng đàn, dạy ba vị Phạm Công Tắc, Cao Quỳnh Cư, Cao Hoài Sang chuẩn bị thiết một lễ chay để cầu thỉnh Đức Diêu Trì Kim Mẫu và Cửu Vị Tiên Nương giáng lâm. Đức Phạm Hộ Pháp cho biết : “Đức Chí Tôn ra lệnh, biểu làm một cái tiệc. Ngài dạy sắp đặt cái tiệc ấy để đãi Đấng vô hình. Đãi mười người (vị) Đức Phật Mẫu và Cửu Vị Tiên Nương” (1) Đêm hôm sau, mồng 9, ba vị cầu đến Cô Đoàn Ngọc Quế (Vương Thị Lễ), hỏi thêm cho được tận tường. Đàn hôm ấy quan trọng. Cô Đoàn Ngọc Quế lần đầu tiên cho chư vị biết rằng Cô chính là Thất Nương, Chị Hớn Liên Bạch là Bát Nương, cùng trong Cửu Vị Tiên Nương hộ giá Đức Diêu Trì Kim Mẫu. Nhưng, Thất Nương vẫn chưa tiết lộ về Đức AĂÂ. Tiếp đến, Thất Nương hướng dẫn đầy đủ nghi thức hành lễ tiếp Đức Từ Tôn Diêu Trì Kim Mẫu vào đêm Trung Thu, và yêu cầu chư vị cần : Trai giới liền ba ngày trước khi hầu lễ, và phải dùng Đại ngọc cơ để cầu Đức Mẹ Diêu Trì.
Ấn tượng lịch sử của Lễ Hội Yến Diêu Trì đầu tiên Theo Sử Đạo, Đêm mồng 8 tháng 8 (25-9-1925), Đức AĂÂ giáng đàn, dạy ba vị Phạm Công Tắc, Cao Quỳnh Cư, Cao Hoài Sang chuẩn bị thiết một lễ chay để cầu thỉnh Đức Diêu Trì Kim Mẫu và Cửu Vị Tiên Nương giáng lâm. Đức Phạm Hộ Pháp cho biết : “Đức Chí Tôn ra lệnh, biểu làm một cái tiệc. Ngài dạy sắp đặt cái tiệc ấy để đãi Đấng vô hình. Đãi mười người (vị) Đức Phật Mẫu và Cửu Vị Tiên Nương” (1) Đêm hôm sau, mồng 9, ba vị cầu đến Cô Đoàn Ngọc Quế (Vương Thị Lễ), hỏi thêm cho được tận tường. Đàn hôm ấy quan trọng. Cô Đoàn Ngọc Quế lần đầu tiên cho chư vị biết rằng Cô chính là Thất Nương, Chị Hớn Liên Bạch là Bát Nương, cùng trong Cửu Vị Tiên Nương hộ giá Đức Diêu Trì Kim Mẫu. Nhưng, Thất Nương vẫn chưa tiết lộ về Đức AĂÂ. Tiếp đến, Thất Nương hướng dẫn đầy đủ nghi thức hành lễ tiếp Đức Từ Tôn Diêu Trì Kim Mẫu vào đêm Trung Thu, và yêu cầu chư vị cần : Trai giới liền ba ngày trước khi hầu lễ, và phải dùng Đại ngọc cơ để cầu Đức Mẹ Diêu Trì.
Ấn tượng lịch sử của Lễ Hội Yến Diêu Trì đầu tiên Theo Sử Đạo, Đêm mồng 8 tháng 8 (25-9-1925), Đức AĂÂ giáng đàn, dạy ba vị Phạm Công Tắc, Cao Quỳnh Cư, Cao Hoài Sang chuẩn bị thiết một lễ chay để cầu thỉnh Đức Diêu Trì Kim Mẫu và Cửu Vị Tiên Nương giáng lâm. Đức Phạm Hộ Pháp cho biết : “Đức Chí Tôn ra lệnh, biểu làm một cái tiệc. Ngài dạy sắp đặt cái tiệc ấy để đãi Đấng vô hình. Đãi mười người (vị) Đức Phật Mẫu và Cửu Vị Tiên Nương” (1) Đêm hôm sau, mồng 9, ba vị cầu đến Cô Đoàn Ngọc Quế (Vương Thị Lễ), hỏi thêm cho được tận tường. Đàn hôm ấy quan trọng. Cô Đoàn Ngọc Quế lần đầu tiên cho chư vị biết rằng Cô chính là Thất Nương, Chị Hớn Liên Bạch là Bát Nương, cùng trong Cửu Vị Tiên Nương hộ giá Đức Diêu Trì Kim Mẫu. Nhưng, Thất Nương vẫn chưa tiết lộ về Đức AĂÂ. Tiếp đến, Thất Nương hướng dẫn đầy đủ nghi thức hành lễ tiếp Đức Từ Tôn Diêu Trì Kim Mẫu vào đêm Trung Thu, và yêu cầu chư vị cần : Trai giới liền ba ngày trước khi hầu lễ, và phải dùng Đại ngọc cơ để cầu Đức Mẹ Diêu Trì.
Đạo Cao Đài là tôn giáo độc thần, đa thần, hay vừa độc thần vừa đa thần ?
Khi nghiên cứu một tôn giáo, người ta thường xếp nó vào một hệ thống phân lọai nào đó. Ví dụ tôn giáo dân tộc, tôn giáo truyền thống, tôn giáo tổng hợp, tôn giáo cải cách, tôn giáo độc thần, đa thần hay phiếm thần...
Nhìn lại cơ Đạo, từ sơ khai đến khi hình thành và phát triển sẽ ghi nhận được những bước ngoặt rất quan trọng và có ý nghĩa quyết định đối với tiền đồ.
Con Người Đại Đạo phải là một Nguyên nhân; đó là người đạt đến Thượng trí tức cái Chơn tri làm chủ mọi tri thức (hạ trí) và tình thức. Kế đến, Nguyên nhân ấy thọ bẩm tinh thần đắc nhất của tâm linh (thuộc cõi Bồ đề ) để sử dụng chơn tri của thượng trí mà thi hành sứ mạng.
Như thế bản chất của người thiên ân sứ mạng là bản chất Đại Đạo, là tình bác ái bao dung tất cả khiến người sứ mạng hành động vô tư, hiệp nhất được mọi đối tượng trên từng nấc thang tiến lên lý tưởng chân thiện mỹ của loài người. Chỉ có bản chất Đại Đạo mới hóa giải được mọi đổ vỡ phân ly hận thù trong lòng nhân thế gây ra biết bao sóng gió phủ phàng cho cuộc đời.
Trong nhiều Kinh sách Nho Giáo, từ Hoàng Cực đã được trân trọng nhắc đến. Hoàng Cực được xem như Vương đạo, chuẩn mực trị nước của những minh quân Trung Quốc thời xưa.
Điểm tô Đạo Trời về mặt hình tướng là làm sáng danh Thầy, danh Đạo về mặt hình thức bằng cách xây dựng tôn nghiêm Thánh Thể của Thầy.
Thánh tịnh hay tịnh thất đều là một nơi để thể hiện tình thương của Thượng Đế đối với vạn linh sanh chúng nơi cõi trần. Cũng là nơi gặp gỡ của các bậc Thánh Lệnh đã có sứ mạng đến trần gian độ đời hành đạo, và cũng là nơi để tất cả đều tìm đến chơn lý trong sự sáng suốt thiêng liêng của mỗi nhơn sanh.
Cao Đài nhứt bổn
Từ khi con người có mặt trên địa cầu, điều mong muốn đầu tiên là sự sống, rồi cùng nhau bảo vệ sự sống đó. Lẽ sống là mục tiêu đơn giản và cấp thiết nhất của con người sơ khai mà tất cả đều cùng hướng đến như một phản xạ tự nhiên.
Do đó, con người sống thành quần thể để cùng chống chỏi với thiên nhiên. Trên đà phát triển, quần thể ngày một đông, mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên ngày càng sâu sát và mở rộng. Con người bắt đầu phải đấu tranh trong cuộc sống xã hội hẳn còn đơn sơ, dục vọng và đau khổ bắt đầu nẩy mầm. Sự cố gắng khắc phục sức mạnh thiên nhiên vừa làm cho con người tiến bộ, vừa khiến con người cảm thấy nhỏ bé và yếu đuối giữa trời đất. Trong tiềm thức, con người cảm nhận có những quyền năng vô hình tạo ra sức mạnh thiên nhiên. Từ đó, \\\"xuất hiện\\\" đối tượng thứ ba con người phải hướng tới, đó là thần linh.
Ôn học lời dạy của Đức Lý Giáo Tông
Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý
Tuất thời, 15-01 Giáp Dần (06-02-1974)
Nghiên cứu lịch sử hay nguồn gốc các tôn giáo, người ta thường phân lọai các tôn giáo về mặt đức tin nơi Thần Thánh thành ba lọai:
_ Tôn giáo đa thần (polytheism)
_ Tôn giáo độc thần (monotheism)
_ Tôn giáo phiếm thần (pantheism)
THÁNH GIÁO tại Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý, Tuất thời, 14-02 Giáp Dần (07-3-1974)
Bài thuyết minh giáo lý của Giáo Sĩ Huệ Ý, Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Đại Đạo.
Tháng 3-2007 (Đinh Hợi)
Vào dịp khai mạc Văn Phòng Phổ Thông Giáo Lý, Rằm tháng Giêng năm Ất Tỵ 1965, Đức Chí Tôn có dạy:
“Trước hiện tình đặc biệt ngày nay, nhiệm vụ các con rất cần hơn lúc nào hết. Con không còn tìm ăn những bánh vẽ và trao bánh vẽ cho kẻ khác cùng ăn; mà con phải ăn một thức ăn tinh thần và mọi người đều thọ hưởng thức ăn tinh thần ấy, để có đủ năng lực sáng suốt, ngõ hầu đối phó với mọi hoàn cảnh hiện tại và xây đắp lại nền tảng giáo lý vững chắc ở tương lai.”
Cách đây hơn 80 năm, Đức Thượng Đế Cao Đài thâu nhận người đệ tử đầu tiên là Ngài Ngô Minh Chiêu vào năm 1921.Tam vị Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc, Cao Hoài Sang làm lễ Vọng thiên cầu đạo đêm mùng 1 tháng 11 năm Ất Sửu (16-12-1925), Đức Thượng Đế hạ ngọn linh cơ tại Việt Nam, tức là đã đặt viên gạch đầu tiên cho Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ tại thế gian này. Từ đó, tòa Cao Đài được thiết lập đồng thời được ban trao sứ mạng Tam Kỳ Phổ Độ. Sứ mạng phổ độ nhân sanh kỳ thứ ba này được mệnh danh là sứ mạng Đại Đạo do bởi đặc ân của Thượng Đế dành cho cơ cứu thế Hạ nguơn tức là cơ cứu độ sau cùng trước khi kết thúc một đại chu kỳ vũ trụ.
Kinh thành Thăng Long là một tác phẩm vĩ đại dung chứa và biểu tượng của một tổng hợp Triết Lý độc đáo mà Thiền Sư Vạn Hạnh đã suy tư và dựng nên. Nó đặc trưng, thể hiện mọi phương diện từ Văn Hóa, Nghệ Thuật, Triết Lý, Chính Trị v.v… đâu đó đều in bóng dáng hùng vĩ của Vạn Hạnh, dù thời gian đã rêu phong, nhưng dấu chân người đã in đậm trên từng đường nét.
VỀ MIỀN SÔNG HẬU
Thuyền rời bến vượt dòng đêm lạnh,
Cà Mau ơi, sông lạnh đìu hiu!
Nhớ sao…chim Quốc kêu chiều,
Ven trời quê mẹ chín chiều ruột đau…
Tiền bối Cao Triều Phát sinh ra trong một gia đình đạo đức, thừa hưởng tính cách nhân hậu của cha mẹ, nhất là của thân phụ là cụ Cao Minh Thạnh. Từ thuở còn thanh niên, cụ Thạnh đã là người của xóm làng. Lãnh trọng trách trong làng, xã, rồi lên huyện, tỉnh, cụ đem sức lực xây dựng quê hương Bạc Liêu. Việc làm lớn nhất là chiêu mộ dân về khai phá, mở mang vùng rừng hoang phía đông tỉnh Bạc Liêu, tổ chức đào kênh đắp lộ, xây dựng nên huyện Vĩnh Châu có kinh tế trù phú, văn hóa phát triển hơn các huyện khác trong tỉnh Bạc Liêu thời bấy giờ.(Sau năm 1975 huyện Vĩnh Châu nhập về tỉnh Sóc Trăng). Chẳng những có công khai phá, xây dựng huyện nhà, mà cụ còn là một viên chức địa phương thanh liêm, giàu lòng nhân ái, hết lòng chăm lo cho người dân còn nhiều khó khăn khi tới vùng đất mới này. Trước năm 1975 trên bản đồ chính thức của tỉnh Bạc Liêu có một con kênh khá dài chạy trên đất Vĩnh Châu mang tên Cao Minh Thạnh, ghi lại công đức người xưa đã góp phần khai sáng nơi đây.
Thời kỳ Tam Quốc (Hoa phồn thể: 三國, Hoa giản thể: 三国, Pinyin: Sānguó) là một thời kỳ trong lịch sử Trung Quốc. Một cách chính xác theo khoa học thì nó bắt đầu vào năm 220 khi nhà Ngụy được thành lập và kết thúc năm 280 khi nhà Ngô sụp đổ và nhà Hậu Tấn thống nhất Trung Hoa.
Đức Chí Tôn dạy rằng: \"Mỗi khi đứa nào lầm lỡ một việc gì, rán mà sám hối ăn năn, sám hối Thầy nói đây là tự giác trở về với linh giác, chớ không phải sám hối là đọc kinh nghe các con.\" ([1])
[1] Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế, Ngọc Minh Đài, 15-7 Kỷ Dậu (28-7-1969).
Hình : Lễ giổ Iổ Hùng Vương tại Phú Thọ-miền Bắc VN
Viết về Họ Hồng Bàng, quyển Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim [1] có chép:
'Cứ theo tục truyền thì Vua Đế Minh là cháu ba đời của vua Thần Nông, đi tuần thú phương Nam đến Ngũ Lĩnh (thuộc tỉnh Hồ Nam bây giờ) gặp một nàng tiên, lấy nhau đẻ ra người con tên Lộc Tục. Sau Đế Minh truyền ngôi lại cho con trưởng là Đế Nghi làm vua phương Bắc, và phong Lộc Tục làm vua phương Nam, xưng là Kinh Dương Vương, quốc hiệu là Xích Quỷ.
Bờ cõi nước Xích Quỷ bấy giờ phía Bắc giáp Động Đình Hồ (Hồ Nam), phía Namgiáp nước Hồ Tôn (Chiêm thành), phía Tây giáp Ba Thục (Tứ Xuyên), phía Đông giáp bể NamHải.
Kinh Dương Vương làm vua nước Xích Quỷ vào quãng năm Nhâm Tuất (2879 trước Tây Lịch?) và lấy con gái Động Đình Quân là Long nữ đẻ ra Sùng Lãm, nối ngôi làm vua, xưng là Lạc Long Quân.
Lạc Long Quân lấy con gái vua Đế Lai tên là Âu Cơ, đẻ một lần được một trăm người con trai. Lạc Long quân bảo Âu Cơ rằng: "Ta là dòng dõi Long-quân, nhà ngươi dòng dõi thần tiên, ăn ở lâu với nhau không được. Nay được trăm đứa con thì nhà ngươi đem 50 đứa lên núi, còn 50 ta đem xuống bể Nam Hải."
