Những liên kết dưới đây có thể hữu ích với bạn.
Ngày Rằm tháng 2 năm Ất Mùi ( 03-4-2015) CQPTGL đã ti63 chức lễ Kỷ niệm Khánh đản Đức Thái Thượng ĐạoTổ đồng hời Kỷ niệm 50 năm thành lập Cơ Quan (1965-2015).
Đại diện Các Hội thánh, các Thánh thất, Thánh tịnh, Tôn giáo bạn, Chính quyền địa phương, các đoàn thể đã đến dự đông đảo.
Nội dung cuộc lễ, Ban tổ chức đã báo cáo hoạt động hành đạo 50 năm của Cơ Quan và Thuyết đạo đề tài "Sống đời bình dị-Sống đạo tự nhiên".Ngoài ra Giáo sư Thương Văn Thanh (HT.Truyển Gáo), Linh mục Bảo Lộc (Ban Muc Vụ LiiênTôn) , Giáo sư Thượng Phong Thanh (Trưởng Ban Thư Kỳ Tổ chức Liên Giao các Hội Thánh Cao Đài), Phó BanTôn Giáo TP.HCM đã phát biểu cảm tưởng rất nhiệt tình . . .
Thánh tịnh Ngọc Điện Huỳnh Hà tại Quận 2 TP.HCM cử hành Lễ kỷ nệm ngày thành lập lần thứ 81 vào ngày 24 tháng 6 Giáo Ngọ ( 20- 7-2014) trùng dụng Lễ Vía Đức Hiệp Thiên Đại Đế Quan Thánh Đế Quân. Đồng đạo các nơi về dự lễ rất đông đảo dưới sự chủ trì của Chức sắc lãnh đạo Hội Thánh Cao Đài Tiên Thiên
Ngày 19 - 6 - Giáp Ngọ, 15/7/2014 Cơ Quan PTGL đã cử hành lễ Kỷ niệm ngày thành đạo của Đức Bồ Tát và Tổng kết hoạt động Phòng Khám Bệnh Phước Thiện. Các phái đoàn các Hội Thánh, Thánh thất Thánh tịnh và chính quyền đoàn thể đến dự rất đông đủ, trang nghiêm.
Tổ đình Chiếu Minh Tam Thanh Vô Vi tại Cần Thơ tổ chức trọng thể Lễ Kỷ niệm ngày qui thiên của Đức Ngô vào 12 và 13-3-Giáo Ngọ (11. 12. 4 . 2014)
Kính mời xem ảnh nơi Thư viện ảnh của NCGL
Ngày 17/3/2014 Tổ chức Liên Giao các Hội Thánh & các Tổ chức Cao Đài đã khai mạc Hội nghị Liên Giao lần VII tại HT. Minh Chơn Đạo (Cà Mau) dồng thời tổ chức Hội thảo chủ đề " Vai trò nữ phái trong Đai Đạo TKPĐ)
Hội nghị có sự hiện diện của 16 đơn vị gồm các HT và các Tổ chức Cao Đài độc lập. Cuộc Hội thảo diễn ra ngày 18/3/2014, các phái đoàn Nữ phái các HT và các Tổ chức tham gia rất đông đảo với nhiều bài tham luận sâu sắc. Nhiều đại biểu Hội Phụ Nữ các tỉnh tham dự ủng hộ rất nhiệt tình.
Hội Nghị và Hội thảo được đánh giá là thành công tốt đẹp.
Kỷ niệm 40 năm thành lập, Họ đạo Trung Nghĩa tổ chức lễ Khánh thành Thánh thất vào ngày 20 tháng 11 năm Quý Tỵ (2013) tại huyện Châu Đức (Suối Nghệ) tỉnh Bà Rịa . (xem album Thư viện hình)
-
Vạn lý trường thành dài hơn 6700 km, bắt đầu được xây dựng vào đầu thế kỷ 3 TCNđể ngăn ...
-
Xuân rằng đến chẳng vì ai ! Xuân đến theo lẽ tự nhiên của đất trời. Chẳng vì có hoa ...
-
Tu học trong nhà Đạo Kỳ Ba, cho dầu khác hội thánh, khác địa phương chúng ta đều được dạy ...
-
TEILHARD DE CHARDIN Nhà bác học - cũng là linh mục- Teilhard de Chardin đã chứng minh rằng sự sống đánh ...
-
Một ngày Tết Đoan Ngọ thật tươi trong và đầy ánh Thái dương ấm áp.Cơm nước đã sẵn sàn, tôi ...
-
Tổng hợp và tóm lược thánh giáo của Đức Đại Tiên Lê Văn Duyệt: tại: _ Nam Thành Thánh Thất, 31-3-1969 ...
-
THẮP ĐUỐC ĐẠI ĐẠO ĐỂ GIEO NIỀM TIN SIÊU VIỆT CAO ĐÀI Đức Chí Tôn khai đạo đã hơn 80 năm, ...
-
1. QUAN NIỆM BẤT CẬP ° Đạo đồng nghĩa với tôn giáo? Người ta thường cho rằng Đạo đồng nghĩa với tôn ...
-
NĂM MỚI, NHÌN LẠI SÁNG KIẾN HÒA BÌNH CŨ Theo sáng kiến của UNESCO, Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc đã ...
-
Bần Đạo để ít lời các em cần hiểu. Bần Đạo cũng nhắc lại để các em nhớ, chỉ có tâm ...
-
Điều thứ hai mươi của Tân Luật có qui định Chức sắc giữ Thánh thất mỗi ngày phải làm tiểu ...
-
SOUFISME /
Soufisme (Sufism) là kinh sách dạy về Nội giáo(esoterism) của Hồi giáo (Islam) Dưới đây là bài viết khái lược về ...
"Mẹ đến trần gianđể thưởng Xuân,
Cùng con lớn nhỏ được vui mừng;
Con mừng thưởng đặng mùa Xuân đạo,
Xuân đạo lập thành đức Thánh nhân."
Nhạc và lời: TRẦN BỬU LONG
Vui hát trong câu ca là la la la. Đôi bướm vui tung tăng lượn trong muôn hoa. Đường về Đài Cao đường chung của muôn nhà. Mình cùng vang ca quên mất đường xa.
Nâng bước chân em đi đường xa xa ơi. Vang tiếng vang em ca về trao muôn nơi. Ngày này học Đạo Cao ngày sau sẽ giúp đời. Chờ bình minh lên tung cánh ngàn khơi.
AUDIO GIỚI THIỆU NỀN TÂM TRUYỀN ĐĐTKPĐ
Trích quyển TÌM HIỂU TÔN GIÁO CAO ĐÀI, CQPTGL tái bản 2013
Giáo sĩ Huệ Ý phát âm
SỨ MANG VI NHÂN - THIỆN CHÍ Thuyết minh GL tại Thánh thất Kim Thành Long (long An)
The Sacred statue of Cao Dai religion appeared for the first time to the first disciple was Mr. Ngo Minh Chieu in Duong Dong, Phu Quoc in 1921. Mr. Ngo directly recognized this as the revelation of God to choose an idol for the Tao. He repainted the Heavenly Eye as a very majestic left eye to worship and soon passed it on to his fellow believers. Today, the Sarced statue is the supreme statue in the entire Cao Dai religion, in the holy houses as well as in the homes of believers.
According to the Dai Dao (Great Way) teachings, these questions can only be answered within the Dharma, and moreover, these answers only make sense for humans when they transcend theory to become belief and personal action. Therefore, the Dai Dao doctrine takes humans as the central point of thought and action. As the center of thought, humans are explained their own existence to perceive their origin, current state, and ultimate aim in the world. As the center of action, humans are entrusted with their mission before all beings and guided to fulfill that noble mission. Through this focal point, the Dai Dao teaches us a path to transcendence already within the answers to the above questions of humanity. That path is called the Great Way (Đại Đạo). Hence, the Dai Dao doctrine helps us understand that humans and the Great Way are truly one.
More than 80 years ago[1], when God lowered the sacred peak for the first time in Vietnam, he laid the first brick for the Great Path of the Three Stages of Universality in this world. Since then, the Cao Dai building was established and at the same time given the mission of Tam Ky Pho Do. This third universal mission is called the Great Path mission because of God's privilege for the lower salvation that is, the last salvation before the end of a great cosmic cycle.
His Holiness Cao Đài said: "I am about to complete the regeneration of the Cao Dai , "Use the Great Dao mystic spirit to operate." The word "regeneration " refer to the circulation of the universe according to the law of the chief evil: the development process of all things is not fixed to a certain extent, but according to the cycle, like a full tide, like a crescent moon, like a full moon, like a human life.
SỨ MẠNG ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ Cách đây hơn 80 năm[1], khi Đức Thượng Đế hạ ngọn linh cơ lần đầu tiên tại Việt Nam, tức là đã đặt viên gạch đầu tiên cho Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ tại thế gian này. Từ đó tòa Cao Đài được thiết lập đồng thời được ban trao sứ mạng Tam Kỳ Phổ Độ. Sứ mạng phổ độ nhân sanh kỳ thứ ba này được mệnh danh là sứ mạng Đại Đạo do bởi đặc ân của Thượng Đế dành cho cơ cứu thế hạ nguơn tức là cơ cứu độ sau cùng trước khi kết thúc một đại chu kỳ vũ trụ.
Vào đêm lễ Phục Sinh năm nay, 07-4-2012, khi Đức Giáo hoàng Benedict XVI thắp cây nến đầu tiên tại Thánh đường Pierre, và đồng loạt hàng chục ngàn cây nến khác của “dân Chúa” thắp sáng quanh đền thánh, Ngài liền tuyên bố những lời bất hủ: “Nếu như Chúa Trời và các giá trị đạo đức, sự khác biệt giữa thiện và ác, còn nằm trong tăm tối, thì các loại khai sáng khác vốn mang lại cho chúng ta các thành quả công nghệ và kỹ thuật, lại không phải là tiến bộ mà còn gây nguy hiểm cho cả thế giới chúng ta." Thông điệp trên khiến chúng ta tự hỏi: “ Vì sao các loại khai sáng khác không khêu tỏ được các giá trị đạo đức; vì sao sự phân biệt giữa thiện và ác bị bóng tối bao trùm? Bóng tối đó là gì, do đâu mà có?”
Trong các trích đoan thánh giáo trên, cho thấy Ơn Trên dạy rõ “ BÍ PHÁP là gì,” nhưng đồng thời cũng dạy về “ Pháp môn công phu thiền định” tức là đạo pháp. Thiển nghĩ sự “ ban trao bí pháp và tiếp nhận bí pháp” hàm ý bí pháp gồm chủ thể và đối tượng tương liên bằng một động tái kín nhiệm tại tâm. Các đối tượng phải tự tạo điều kiện “ tịnh khiết” thân tâm để nhận được “ bí pháp” : “Con người biết giữ được mực độ quân bình cho chính bản thân là tâm linh phải lo trau luyện cho thanh thoát, đừng để thất tình lục dục bao vây.( Đối tượng ”trau luyện” phải chăng thực hành đạo pháp hay pháp môn) Vậy toàn bộ những gì thuộc về cơ cứu độ Kỳ Ba, Bí pháp hay Đạo pháp đều nằm trong Chánh pháp Đại Đạo. TH.CH.
According to the Dai Dao (Great Way) teachings, these questions can only be answered within the Dharma, and moreover, these answers only make sense for humans when they transcend theory to become belief and personal action. Therefore, the Dai Dao doctrine takes humans as the central point of thought and action. As the center of thought, humans are explained their own existence to perceive their origin, current state, and ultimate aim in the world. As the center of action, humans are entrusted with their mission before all beings and guided to fulfill that noble mission.
K….Khá nghe dạy : Rừng thiền nhặt thúc tiếng chuông trưa Phước gặp về Ta , buổi đã vừa . Nẽo hạnh làu soi gương Nguyệt thắm . Sân ngô rạng vẽ cánh thu đưa . Mai tàn cúc xủ đời thay đổi. Dữ tận hiền thăng khách lọc - lừa. Mùi đạo gắng giồi lòng thiện niệm. Duyên may tìm lại phẩm ngôi xưa . o0o _ Màn trời che lấp dấu trần , Đạo Thánh dắt dìu bước tục.Cuối Hạ Nguơn biết bao đời thay đổi
Ấn tượng lịch sử của Lễ Hội Yến Diêu Trì đầu tiên Theo Sử Đạo, Đêm mồng 8 tháng 8 (25-9-1925), Đức AĂÂ giáng đàn, dạy ba vị Phạm Công Tắc, Cao Quỳnh Cư, Cao Hoài Sang chuẩn bị thiết một lễ chay để cầu thỉnh Đức Diêu Trì Kim Mẫu và Cửu Vị Tiên Nương giáng lâm. Đức Phạm Hộ Pháp cho biết : “Đức Chí Tôn ra lệnh, biểu làm một cái tiệc. Ngài dạy sắp đặt cái tiệc ấy để đãi Đấng vô hình. Đãi mười người (vị) Đức Phật Mẫu và Cửu Vị Tiên Nương” (1) Đêm hôm sau, mồng 9, ba vị cầu đến Cô Đoàn Ngọc Quế (Vương Thị Lễ), hỏi thêm cho được tận tường. Đàn hôm ấy quan trọng. Cô Đoàn Ngọc Quế lần đầu tiên cho chư vị biết rằng Cô chính là Thất Nương, Chị Hớn Liên Bạch là Bát Nương, cùng trong Cửu Vị Tiên Nương hộ giá Đức Diêu Trì Kim Mẫu. Nhưng, Thất Nương vẫn chưa tiết lộ về Đức AĂÂ. Tiếp đến, Thất Nương hướng dẫn đầy đủ nghi thức hành lễ tiếp Đức Từ Tôn Diêu Trì Kim Mẫu vào đêm Trung Thu, và yêu cầu chư vị cần : Trai giới liền ba ngày trước khi hầu lễ, và phải dùng Đại ngọc cơ để cầu Đức Mẹ Diêu Trì.
Ấn tượng lịch sử của Lễ Hội Yến Diêu Trì đầu tiên Theo Sử Đạo, Đêm mồng 8 tháng 8 (25-9-1925), Đức AĂÂ giáng đàn, dạy ba vị Phạm Công Tắc, Cao Quỳnh Cư, Cao Hoài Sang chuẩn bị thiết một lễ chay để cầu thỉnh Đức Diêu Trì Kim Mẫu và Cửu Vị Tiên Nương giáng lâm. Đức Phạm Hộ Pháp cho biết : “Đức Chí Tôn ra lệnh, biểu làm một cái tiệc. Ngài dạy sắp đặt cái tiệc ấy để đãi Đấng vô hình. Đãi mười người (vị) Đức Phật Mẫu và Cửu Vị Tiên Nương” (1) Đêm hôm sau, mồng 9, ba vị cầu đến Cô Đoàn Ngọc Quế (Vương Thị Lễ), hỏi thêm cho được tận tường. Đàn hôm ấy quan trọng. Cô Đoàn Ngọc Quế lần đầu tiên cho chư vị biết rằng Cô chính là Thất Nương, Chị Hớn Liên Bạch là Bát Nương, cùng trong Cửu Vị Tiên Nương hộ giá Đức Diêu Trì Kim Mẫu. Nhưng, Thất Nương vẫn chưa tiết lộ về Đức AĂÂ. Tiếp đến, Thất Nương hướng dẫn đầy đủ nghi thức hành lễ tiếp Đức Từ Tôn Diêu Trì Kim Mẫu vào đêm Trung Thu, và yêu cầu chư vị cần : Trai giới liền ba ngày trước khi hầu lễ, và phải dùng Đại ngọc cơ để cầu Đức Mẹ Diêu Trì.
Ấn tượng lịch sử của Lễ Hội Yến Diêu Trì đầu tiên Theo Sử Đạo, Đêm mồng 8 tháng 8 (25-9-1925), Đức AĂÂ giáng đàn, dạy ba vị Phạm Công Tắc, Cao Quỳnh Cư, Cao Hoài Sang chuẩn bị thiết một lễ chay để cầu thỉnh Đức Diêu Trì Kim Mẫu và Cửu Vị Tiên Nương giáng lâm. Đức Phạm Hộ Pháp cho biết : “Đức Chí Tôn ra lệnh, biểu làm một cái tiệc. Ngài dạy sắp đặt cái tiệc ấy để đãi Đấng vô hình. Đãi mười người (vị) Đức Phật Mẫu và Cửu Vị Tiên Nương” (1) Đêm hôm sau, mồng 9, ba vị cầu đến Cô Đoàn Ngọc Quế (Vương Thị Lễ), hỏi thêm cho được tận tường. Đàn hôm ấy quan trọng. Cô Đoàn Ngọc Quế lần đầu tiên cho chư vị biết rằng Cô chính là Thất Nương, Chị Hớn Liên Bạch là Bát Nương, cùng trong Cửu Vị Tiên Nương hộ giá Đức Diêu Trì Kim Mẫu. Nhưng, Thất Nương vẫn chưa tiết lộ về Đức AĂÂ. Tiếp đến, Thất Nương hướng dẫn đầy đủ nghi thức hành lễ tiếp Đức Từ Tôn Diêu Trì Kim Mẫu vào đêm Trung Thu, và yêu cầu chư vị cần : Trai giới liền ba ngày trước khi hầu lễ, và phải dùng Đại ngọc cơ để cầu Đức Mẹ Diêu Trì.
Đôi khi tôi tự hỏi: điều gì đã làm nên sự sống của tôi?
Có phải do công cha nghĩa mẹ đã sanh thành và dưỡng dục tôi từng ngày?
Có phải tôi sống bởi vì tôi đang hít thở và tim tôi vẫn đang đập từng giây từng phút?
Có phải vì các tế bào trong cơ thể tôi đang được điều hòa họat động một cách rất hợp lý, chưa bị trục trặc gì đáng kể, nên tôi cũng được sống bình thường như bao con người khác?
Có phải do tình yêu thương của những người xung quanh tôi đã làm cho cuộc đời tôi trở nên sống động và đáng sống?
Có phải tôi sống bởi vì tôi còn có ích trên cõi đời này?
Điểm tô Đạo Trời về mặt hình tướng là làm sáng danh Thầy, danh Đạo về mặt hình thức bằng cách xây dựng tôn nghiêm Thánh Thể của Thầy.
Thánh tịnh hay tịnh thất đều là một nơi để thể hiện tình thương của Thượng Đế đối với vạn linh sanh chúng nơi cõi trần. Cũng là nơi gặp gỡ của các bậc Thánh Lệnh đã có sứ mạng đến trần gian độ đời hành đạo, và cũng là nơi để tất cả đều tìm đến chơn lý trong sự sáng suốt thiêng liêng của mỗi nhơn sanh.
Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý
Tý thời, 30 tháng Chạp rạng mùng 01 tháng Giêng Đinh Tỵ (17-02-1977)
GIÁO TÔNG ĐẠI ĐẠO THÁI BẠCH KIM TINH, chào chư hiền đệ hiền muội. Miễn lễ, chư đệ muội đồng an tọa.
Xuân đã về trước ngõ, chư đệ muội hãy vui vẻ lên đón Chúa Xuân. Dầu có muôn vạn mùa xuân qua qua lại lại, tới tới lui lui, nhưng người khách biết thưởng xuân, thì xuân với lòng người là một, không qua không lại, không tới không lui, không thời gian ước định mà vĩnh cữu hằng tại.
Thánh giáo tại Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý, Tuất thời, 14 tháng 3 Mậu Ngọ (20-4-1978)
NHƯ Ý ĐẠO THOÀN CHƠN NHƠN, Lão chào mừng chư Thiên ân, chư đệ muội.
Lão chuyển đàn bất ngờ trong giây phút để nhờ chư Thiên ân đệ muội nhân dịp đến dự lễ tái thiết Vĩnh Nguyên Tự, chuyển lời Lão dạy sau đây đến các Thiên ân nam nữ sở tại. Xin mời đồng an tọa.
Hỡi chư Thiên an nam nữ ! này các cháu trai, cháu gái lớn nhỏ ! Lão tạm linh cơ gởi đến các cháu lớn nhỏ đôi dòng tâm huyết để các cháu ghi nhớ, học hỏi tu hành.
Bài thuyết minh giáo lý của Giáo Sĩ Huệ Ý, Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Đại Đạo.
Tháng 3-2007 (Đinh Hợi)
Neil Armstrong (sinh 5 tháng 8, 1930) là một phi hành gia người Mỹ, người đầu tiên đặt chân lên Mặt Trăng ngày 20 tháng 7 năm 1969, trong chuyến du hành trên tàu Apollo 11 cùng Buzz Aldrin & Michael Collins.
Khi đặt chân xuống Mặt trăng, ông đã nói một câu bất hủ: "Đây là bước chân nhỏ bé của một người, nhưng là bước tiến khổng lồ của nhân loại".( That's one small step for [a] man, one giant leap for mankind")
Thật vậy ! Kể từ khi loài người còn sống hoang dã cách đây khoảng 10.000 năm cho đến ngày đặt chân lên mặt trăng, hành tinh cách địa cầu gần 400 ngàn km, quả là bước tiến khổng lồ !
Cao Đài nhứt bổn
Từ khi con người có mặt trên địa cầu, điều mong muốn đầu tiên là sự sống, rồi cùng nhau bảo vệ sự sống đó. Lẽ sống là mục tiêu đơn giản và cấp thiết nhất của con người sơ khai mà tất cả đều cùng hướng đến như một phản xạ tự nhiên.
Do đó, con người sống thành quần thể để cùng chống chỏi với thiên nhiên. Trên đà phát triển, quần thể ngày một đông, mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên ngày càng sâu sát và mở rộng. Con người bắt đầu phải đấu tranh trong cuộc sống xã hội hẳn còn đơn sơ, dục vọng và đau khổ bắt đầu nẩy mầm. Sự cố gắng khắc phục sức mạnh thiên nhiên vừa làm cho con người tiến bộ, vừa khiến con người cảm thấy nhỏ bé và yếu đuối giữa trời đất. Trong tiềm thức, con người cảm nhận có những quyền năng vô hình tạo ra sức mạnh thiên nhiên. Từ đó, \\\"xuất hiện\\\" đối tượng thứ ba con người phải hướng tới, đó là thần linh.
Nhìn lại cơ Đạo, từ sơ khai đến khi hình thành và phát triển sẽ ghi nhận được những bước ngoặt rất quan trọng và có ý nghĩa quyết định đối với tiền đồ.
THÁNH GIÁO tại Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý, Tuất thời, 14-02 Giáp Dần (07-3-1974)
Con Người Đại Đạo phải là một Nguyên nhân; đó là người đạt đến Thượng trí tức cái Chơn tri làm chủ mọi tri thức (hạ trí) và tình thức. Kế đến, Nguyên nhân ấy thọ bẩm tinh thần đắc nhất của tâm linh (thuộc cõi Bồ đề ) để sử dụng chơn tri của thượng trí mà thi hành sứ mạng.
Như thế bản chất của người thiên ân sứ mạng là bản chất Đại Đạo, là tình bác ái bao dung tất cả khiến người sứ mạng hành động vô tư, hiệp nhất được mọi đối tượng trên từng nấc thang tiến lên lý tưởng chân thiện mỹ của loài người. Chỉ có bản chất Đại Đạo mới hóa giải được mọi đổ vỡ phân ly hận thù trong lòng nhân thế gây ra biết bao sóng gió phủ phàng cho cuộc đời.
Nguyên lý của thiên đạo giải thoát
Bài thuyết minh giáo lý nội bộ tại Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Đại Đạo, 09-05-2009 (15-04 Kỷ Sửu)
Quẻ Địa Thiên Thái gồm nội quái là Kiền và ngọai quái là Khôn, 2 quẻ đầu trong 64 quẻ Kinh Dịch. Thái có nghĩa to lớn, thông suốt, tốt đẹp, yên ổn
-Tượng quẻ cho thấy, hạ quái là Kiền, tức Dương khí của Trời hạ xuống; thượng quái là Khôn, là Đất, tức Âm khí bay lên, thể hiện sự gặp gỡ giao hòa giữa Trời Đất, hiểu rộng ra là hai khí Âm Dương giao tiếp nhau, tượng trưng sự hanh thông trong định luật thiên nhiên.
Lịch sử Trái Đấttrải dài khoảng 4,55 tỷnăm, từ khi Trái Đấtcùng với Hệ Mặt Trờihình thành từ Tinh vân mặt trờicho tới hiện tại. Trái Đất buổi ban đầu ở thời Liên đại Hỏa Thànhkhông có các đại dương và cũng không có ôxitrong khí quyển. Hành tinhluôn bị bắn phá bởi các tiểu hành tinhvà các vật chất khác còn sót lại sau khi hình thành nên Hệ Mặt Trời, những vụ núi lửaphun trào diễn ra thường xuyên, hành tinh nóng như bị nấu chảy. Bề mặt dần lạnh đi, tạo nên vỏ cứng trong vòng 150 triệu năm. Hơi nướcvà khí thoát ra từ lớp vỏ khi các khí gas bị núi lửa phun lên tạo cho Trái Đất một lớp khí quyển. Các đám mâyđược tạo thành. Mưatạo nên biểnvà đại dương.
Nguồn : http://chungta.com/Desktop.aspx/ChungTa-SuyNgam/Con-Nguoi/Tam_linh-ban_the_con_nguoi/)
Khi chủ nghĩa duy lý chưa ra đời và chưa chi phối đời sống con người, đời sống tâm linh ở con người rất dễ được nhận thấy, thậm chí nó thâm nhập tất cả các mặt đời sống khác của con người. Nhưng trong xã hội hiện đại, khi lý trí được tôn thờ như một quyền lực vạn năng, chủ nghĩa duy lý đã đem lại cho con người một sức mạnh nhận thức mới để chiếm lĩnh thế giới chung quanh, khiến cho con người có được nhiều thứ hơn- vật chất cũng như tinh thần – trước đó chưa hề có, nó lại làm cho con người mất đi nhiều thứ vốn có của nó, trước hết là đời sống tâm linh. Alexis Carrel, giải Nobel, tác giả cuốn sách nổi tiếng Con người – một ẩn số (L’homme, cet inconnu), viết rất hay về vấn đề này: “Công nghệ hiện đại đem lại cho chúng ta sư giàu có, sức khỏe, tiện nghi, mọi thuận lợi trong đời sống; nó cho phép chúng ta lập ra một thiên đường mới trên Trái đất. Nhưng các khoa học về sự sống vô cùng lạc hậu so với các khoa học về tinh thần.
Tây Minh vốn là đoạn văn đầu của thiên Càn Xưng 乾 稱 trong Chính Mông正 蒙 của Trương Hoành Cừ, tức Trương Tái (1020-1077). Trương Tái chép đoạn đầu thiên này vào vách tường phía tây nơi thư phòng (ông đặt tên là Đính Ngoan 訂 頑 ); rồi chép đoạn cuối thiên này vào vách tường phía đông (ông đặt tên là Biếm Ngu 砭 愚 ).
Quyển sách “Tâm tĩnh lặng” , gồm những bài viết cô đọng có tựa đề: Đạo giản dị, trung đạo, tự chứng ngộ, diệt trừ phiền não, chỉ bấy nhiêu thôi, thiền trong mọi động tác, giới định huệ, biết mình biết người, hãy để cho người khác được tự tại, xả bỏ, chính niệm, cốt tủy của thiền quán, kiên trì, quên thời gian đi, lá vẫn cứ rơi, nói ít, chạy đi đâu bây giờ?, dựa vào chính mình, vô ngã, v.v.
Trong bài viết: “Chỉ bấy nhiêu thôi” có nội dung: Thế giới nầy cũng chỉ bấy nhiêu thôi vì bị thống trị bởi định luật tứ khổ (sanh, lão, bệnh và tử) và vô thường. Chúng ta chơi đùa với cuộc sống một chút để có niềm vui một chút, nhưng sự vui thú nầy dù cho có kéo dài bao lâu đi nữa, cũng chỉ thế thôi. Dù cho những thứ gì khoái lạc, thơm ngon, thú vị và đẹp đẽ đi nữa thì cũng chỉ bấy nhiêu thôi...
清 靜經
Thanh Tĩnh Kinh
● Lê Anh Minh dịch & chú thích
Kinh này có tên gọi đầy đủ là «Thái Thượng Lão Quân Thuyết Thường Thanh Tĩnh Kinh» 太上老君說常清靜經, còn có tên là «Thái Thượng Hỗn Nguyên Thượng Đức Hoàng Đế Thuyết Thường Thanh Tĩnh Kinh» 太上混元上德皇帝說常清靜經, «Thường Thanh Tĩnh Kinh» 常清靜經, hay «Thanh Tĩnh Kinh» 清靜經. Nội dung của kinh là giải thích sự diệu dụng của thanh tĩnh. Để đạt sự thanh tĩnh thì người tu phải «tam quán»: nội quán (nhìn vào trong), ngoại quán (nhìn ra ngoài), và viễn quán (nhìn ra xa). Tam quán để thấy vạn vật đều là không; tức là «trừng tâm» (làm trong sạch tâm) để diệt trừ vọng tâm, diệt trừ phiền não.
Tác giả của bản kinh này chưa rõ là ai. Có thuyết cho rằng đó là Cát Huyền 葛玄 (164-244); có thuyết cho rằng tác giả là một đạo sĩ ẩn danh, sống vào đời Đường (618-907) hoặc Ngũ Đại (907-1279). Bản kinh này (có lời chú của Thuỷ Tinh Tử 水精子) đã được đưa vào «Chính Thống Đạo Tạng» 正統道藏. Đây là bản kinh được giới Đạo sĩ rất xem trọng. Giáo phái Thanh Tĩnh Phái 清靜派 của Toàn Chân Đạo 全真道 quy định đây là bản kinh nhật tụng của đạo sĩ bản môn, nên bản kinh được lưu hành rất rộng và có nhiều bản chú thích của các nhà như: Đỗ Quang Đình 杜光庭, Thuỷ Tinh Tử 水精子, Hỗn Nhiên Tử 混然子, Hầu Thiện Uyên 侯善淵, Lý Đạo Thuần 李道純.●
Bực Chơn Nhơn ngày xưa không ưa sống, không ghét chết, lúc ra không hăm hở, lúc vào không do dự, thản nhiên mà đi, không quên lúc bắt đầu, không cầu lúc sau chót. Nhận lãnh thì vui với đó, mà quên đi khi phải trở về. Nhờ được thế mà lòng họ luôn luôn vững vàng, cử chỉ điềm đạm, gương mặt luôn luôn bình thản
